Nhập môn Pháp chân đế: XVIII. Các cõi trú xứ

Thuật ngữ "bhūmi" có nghĩa là cõi theo nghĩa "cõi thức" của tâm và cũng có nghĩa là "cõi trú xứ". Bhūmi theo nghĩa cõi trú xứ là thế giới hay nơi chốn tái sinh của các chúng sinh.

Có 31 cõi khác nhau và các cõi này tương thích với thứ cấp của các tâm đã tạo duyên cho sự tái sinh ở các cõi ấy. 31 cõi trú xứ này bao gồm:

  • 11 cõi dục giới (kāma bhūmi)
  • 16 cõi trời sắc giới (rūpa brahma bhūmi)
  • 4 cõi trời vô sắc (arūpa brahma bhūmi)

Đây là sự phân chia thành 31 cõi theo những cấp độ khác nhau. Thực ra trong mỗi cõi này lại có nhiều cảnh giới tái sinh khác nhau. Ngay cả cõi người này cũng không phải là cõi người duy nhất, mà còn có các cõi người khác nữa.

I. 11 cõi dục giới

11 cõi dục giới bao gồm:

  • Bốn cõi khổ
  • Cõi người
  • Sáu cõi trời

Bốn cõi khổ là: Các cõi địa ngục, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ, cõi Atula

Gọi chung là Địa ngục nhưng không phải chỉ có một tầng địa ngục. Có một tầng địa ngục lớn và trong đó có nhiều tầng địa ngục khác nhau như địa ngục Sañjīva (địa ngục chết đi sống lại), Kalasuta (địa ngục sợi chỉ đen), Sanghāta (địa ngục nghiền nát), địa ngục Roruva (địa ngục kêu rống), địa ngục Tāpana (địa ngục xiên nướng), địa ngục Avīci (địa ngục vô gián).v.v.. Ngoài những tầng địa ngục lớn này còn có nhiều điạ ngục nhỏ hơn nữa mà kinh điển không giảng giải chi tiết. 

Đức Phật đã thuyết giảng về các cõi khác nhau nhằm chỉ ra nguyên nhân và kết quả. Nghiệp thiện (kusala kamma) và nghiệp bất thiện (akusala kamma) là nhân mang đến kết quả tương ứng. Cái mà ta không thể thấy qua kinh nghiệm trực tiếp thì không được giải thích chi tiết như các thực tại có thể được kiểm chứng trực tiếp qua sự phát triển tuệ giác. 

Kinh điển nói nếu sự tái sinh là quả của các trọng nghiệp bất thiện thì sẽ sinh vào Đại địa ngục, tức là A tỳ địa ngục, nơi chúng sinh sẽ phải chịu những sự tra tấn tột đỉnh. Khi đã thoát khỏi Đại địa ngục nhưng nghiệp xấu vẫn chưa cạn, sẽ tiếp tục là sự tái sinh ở một tầng địa ngục nhỏ hơn. Khi một người tạo một trọng nghiệp bất thiện, người ấy không nhận ra rằng địa ngục đang chờ đợi mình ở phía trước, người ấy vẫn chưa sang một cõi khác, mặc dù nhân cho sự tái sinh ở cõi khổ là nghiệp bất thiện đã được tạo rồi.

Kết quả của nghiệp bất thiện ở mức độ nhẹ hơn sẽ tạo ra sự tái sinh ở các cõi khổ khác, chẳng hạn như cõi súc sinh. Chúng ta có thể nhận ra sự đa dạng vô cùng lớn về hình thức của các loài cầm thú. Một số có nhiều chân, một số chỉ có vài chân, một số không chân. Một số có cánh, một số không, một số sống dưới nước, một số sống trên cạn.... Sở dĩ hình thức của muông thú đa dạng như vậy là do tính chất đa dạng của tâm. Sự đa dạng về hình thức nơi loài người thì không lớn như vậy. Nghiệp chính là yếu tố tạo nên sự đa dạng ấy.

Quả của nghiệp bất thiện ở mức độ nhẹ hơn nghiệp cho sự tái sinh ở cõi súc sinh sẽ làm duyên cho sự tái sinh ở cõi ngạ quỷ. Một ngạ quỷ luôn luôn bị tra tấn bởi sự đói khát và mệt mỏi. Có nhiều cõi ngạ quỷ khác nhau. Đói là một trọng bệnh và ngạ quỷ phải chịu đựng cái đói khủng khiếp hàng ngày, hàng giờ, bởi trong cõi ngạ quỷ không có cách nào để chữa đói. Ở đó không thể phát triển nông nghiệp, không thể trồng lúa hay các loại hoa màu khác. Ở cõi ấy không thể nấu ăn, không có thương mại/ thực phẩm. Tuy nhiên, ngạ quỷ có thể tuỳ hỷ với những nghiệp thiện của con người khi ta hồi hướng cho họ, khi đó họ có thể nhận được đồ ăn phù hợp với cõi ấy hoặc có thể thoát khỏi kiếp sống ngạ quỷ và tái sinh vào một cõi khác. Điều này xảy ra khi nghiệp tạo duyên cho sự tái sinh ở cõi ngạ quỷ đã cạn kiệt.

Một cõi khổ khác là cõi Atula, tái sinh ở cõi này cũng là kết quả của nghiệp bất thiện nhẹ hơn nghiệp bất thiện tạo ra sự tái sinh ở các cõi ác đạo khác. Nếu một người tái sinh ở cõi Atula, người ấy không có gì giải trí, không có cách nào vui vẻ với những đối tượng dễ chịu như đọc sách, nghe nhạc ... như ở cõi người hay cõi trời. 

Do các nghiệp bất thiện rất đa dạng và có các mức độ khác nhau, các cõi khổ cũng khác biệt, tuỳ thuộc vào nghiệp tương ứng với sự tái sinh ở cõi ấy.

Có bảy cõi trú xứ an lành là kết quả của nghiệp thiện dục giới (kāmāvacara kusala kamma) bao gồm một cõi người và sáu cõi trời. Tuy cùng gọi là cõi người, nhưng lại có bốn cõi người nơi ta có thể tái sinh: 

  • Cõi Pubbaviheda (Đông thắng thần châu)
  • Cõi Aparagoyāna (Tây ngưu hoá châu)
  • Cõi Jambudīpa (Nam thiên bộ châu), đây chính là cõi mà chúng ta sống
  • Cõi Uttarakurū (Bắc câu lưu châu)

Các chúng sinh sống ở cõi này, cõi Nam thiên bộ châu, chỉ có thể nhận biết thế giới này, dù đi đâu chăng nữa, họ cũng chỉ thấy được đối tượng của cõi này, họ không thể đi tới ba cõi người khác.

Có sáu cõi trời với những mức độ tuyệt diệu khác nhau.

  • Cõi thứ nhất và cũng thấp nhất là cõi Tứ đại thiên vương (Cātu-Mahārājika)
  • Cõi trời thứ hai là cõi Đao lợi (Tāvatimsa), còn gọi là cõi Tam thập tam thiên - cõi trời Ba mươi ba
  • Cõi trời thứ ba là cõi Dạ ma (Yama)
  • Cõi trời thứ tư là cõi Đâu suất (Tusita)
  • Cõi trời thứ năm là cõi Hoá lạc thiên (Nimmānarati), là cõi trời của các vị chư thiên vui thích với sự sáng tạo
  • Cõi trời thứ sáu là cõi Tha hoá tự tại (Paranimittavasavatti), là cõi trời của các vị chư thiên ngự trị trên sự khai tạo của các vị chư thiên khác, đây là cõi trời dục giới cao nhất

Một người chưa phải A la hán như chúng ta sẽ vẫn còn tái sinh, vậy chúng ta sẽ tái sinh vào đâu? Chắc là không phải cõi Phạm Thiên vì đây là quả của tâm thiền (kusala jhānacitta) nếu nó sinh khởi trước khi chết. Như vậy, khả năng tái sinh vào các cõi dục giới là cao hơn. Việc ta tái sinh ở một cõi khổ hay cõi an lành tuỳ thuộc vào nhân của sự tái sinh, tức là nghiệp, một hành vi đã tạo trong vòng sinh tử luân hồi. 

II. 16 cõi Sắc giới

Các cõi sắc giới là nơi các vị Phạm thiên sắc giới sinh ra. Việc tái sinh ở các cõi này là quả của các tầng thiền sắc giới (rūpa jhāna).

Quả của sơ thiền có thể là tái sinh ở ba cõi sau:

  • Pārisajjā (Phạm chúng thiên) là kết quả của tâm thiền mức độ thấp;
  • Purohitā (Phạm phụ thiên) là kết quả của tâm thiền mức độ trung bình;
  • Mahābrahmā (Đại chúng thiên) là kết quả của tâm thiền mức độ cao;

Quả của nhị thiền có thể là tái sinh ở ba cõi sau, phụ thuộc vào mức độ thấp, trung bình hay cao của tâm thiền:

  • Parittābhā (Thiểu quang thiên)
  • Appamāṇasubhā (Vô lượng tịnh thiên)
  • Ābhassarā (Quang âm thiên)
Quả của tam thiền có thể là tái sinh ở ba cõi sau, phụ thuộc vào mức độ của tâm thiền:
  • Parittasubhā (Thiểu tịnh thiên)
  • Appamāṇasubhā (Vô lượng tịnh thiên)
  • Subhakiṇṇā (Biến tịnh thiên)

Quả của tứ thiền có thể là tái sinh ở bảy cõi sau:

  • Vehapphala (Quảng quả)
  • Asaññāsatta (Vô tưởng), các chúng sinh ở cõi này chỉ sinh ra với sắc, không có tâm và tâm sở. Họ thấy được hiểm hoạ của danh (nāma) và đó là duyên cho họ tái sinh mà không có danh
  • Năm cõi Tịnh Cư (Ngũ Tịnh Cư)
Có một điều đặc biệt về Ngũ Tịnh Cư là chỉ có các vị Thánh Bất lai (Anagami, những vị thánh đã chứng Đạo Quả ở mức độ thứ ba) mới có thể tái sinh vào các cõi này, đó là năm cõi:
 Aviha (Vô phiền), Atappa (Vô Nhiệt), Sudassa (Thiện kiến), Sudassi (Thiện hiện), Akaṇittha (Sắc cứu cánh)

III. Bốn cõi Vô sắc giới

Có bốn cõi phạm thiên vô sắc giới. Tái sinh ở các cõi này là quả của các tầng thiền vô sắc giới, là các tầng thiền có đối tượng không phụ thuộc vào sắc (rūpa). Tương ứng với bốn tầng thiền vô sắc giới có bốn cõi sau:
  • Ākāsānañcāyatana (Không vô biên xứ)
  • Viññāṇañcāyatana (Thức vô biên xứ)
  • Ākiñcaññāyatana (Vô sở hữu xứ)
  • N’evasaññā-n’āsaññāyatana (Phi tưởng phi phi tưởng xứ)
Trong bốn cõi Phạm thiên vô sắc này chỉ có danh uẩn (nāma-khandha): các tâm (citta) và các tâm sở (cetasika) mà thôi; không có sắc nào sinh khởi ở đây cả.

Quay trở lại thuật ngữ "bhūmi" có nghĩa là cõi theo nghĩa "cõi thức" của tâm, chúng ta đã biết có bốn cõi thức: tâm dục giới (kāmavacara citta), tâm sắc giới (rūpāvacara citta), tâm vô sắc giới (arūpāvacara citta) và tâm siêu thế (lokuttara citta). Phần tiếp theo sẽ trình bầy về các tâm thuộc cõi thức cao hơn cõi dục giới.

IV. Tâm sắc giới và tâm vô sắc giới

Các tâm dục giới có thể là một trong bốn chủng loại: thiện, bất thiện, quả và duy tác. Tâm sắc giới và vô sắc giới thì chỉ có thể nằm trong ba chủng loại: thiện, quả và duy tác.

Tâm thiện sắc giới (rūpāvacara kusala citta) có thể tạo nên sự sinh khởi của tâm quả sắc giới (rūpāvacara vipākacitta) đảm nhận chức năng tái sinh ở một trong tổng số 16 cõi phạm thiên sắc giới. Các vị A la hán đã đắc các tầng thiền sắc giới (rūpa-jhāna) sẽ có tâm duy tác sắc giới (rūpāvacara kiriyacitta). 

Tâm thiện vô sắc giới (arūpāvacara kusala citta) có thể tạo nên sự sinh khởi của tâm quả vô sắc giới (arūpāvacara vipākacitta) đảm nhận chức năng tái sinh ở một trong bốn cõi phạm thiên vô sắc giới (arūpā-brahma). Các vị A la hán đã đắc các tầng thiền vô sắc giới (arūpā-jhāna) sẽ có tâm duy tác vô sắc giới (arūpāvacara kiriyacitta).

Tâm sắc giới (rūpāvacara citta) và những tâm vô sắc giới (arūpāvacara citta) thì được gọi là "tâm cao thượng" hay "tâm đáo đại" (mahaggatā citta, "có nghĩa là đạt được điều vĩ đại, từ khả năng xua tan cấu uế, từ sự dồi dào thiền quả, từ độ dài thời gian...." ).

Phiền não là rất khó để loại bỏ. Ngay khi thấy một đối tượng, tâm thích và không thích đã sinh khởi. Tuy nhiên, khi tâm thiền (sắc giới hay vô sắc giới) sinh khởi, tâm an tịnh và nhất tâm an trú vào đối tượng lúc này được kinh nghiệm qua ý môn. Ở những khoảnh khắc có tâm thiền, không có cái thấy, nghe, ngửi, nếm hay kinh nghiệm đối tượng xúc chạm. Dù trong khoảng thời gian dài ngắn bao lâu đi nữa, chừng nào đang có tâm thiền sinh khởi, chừng đó không thể nào có tâm hộ kiếp (bhavanga citta) sinh khởi ở giữa những tâm thiền ấy như trong trường hợp của các tâm dục giới. Như đã nói, các tâm dục giới là các pháp tiểu tốt (paritta dhamma), chúng sinh khởi trong các lộ trình tâm kéo dài chẳng bao lâu, sẽ luôn phải có các tâm hộ kiếp sinh khởi xen kẽ ngay trước và sau các lộ trình tâm dục giới.

Các tâm đáo đại (mahaggatā citta), tức là các tâm sắc giới và vô sắc giới đã đạt được mức độ tuyệt hảo bởi vì chúng có thể đè nén được phiền não. Khi đắc thiền, tức là khi các tâm thiền sinh và diệt tiếp nối nhau, sẽ không có cái thấy hay cái nghe, không có sự kinh nghiệm đối tượng qua ngũ quan hay sự suy nghĩ về các đối tượng ngũ quan và phiền não cũng không xuất hiện. Tuy nhiên, khi tâm thiền đã diệt đi thì các tâm dục giới lại xuất hiện trở lại. Chừng não các phiền não chưa được tận diệt hoàn toàn, các tâm bất thiện lại có thể sinh khởi sau khi tâm kinh nghiệm các đối tượng ngũ quan, và các tâm bất thiện này sẽ sinh khởi đi sinh khởi lại. Như thế, sự đè nén phiền não đơn thuần (với các tâm đáo đại) sẽ không dẫn tới sự tận diệt các phiền não.

Trước khi Giáo pháp của Đức Phật xuất hiện, có những người đã thấy được bất lợi các tâm bất thiện. Họ đã phát triển một loại hiểu biết thấy được hiểm hoạ của bất thiện và hiểu sự khác biệt giữa tâm bất thiện và tâm thiện khi chúng sinh khởi. Hiểu biết này phát triển, thấy được các tâm bất thiện có mặt ngay sau các kinh nghiệm ngũ quan và hiểu được cách mà các đề mục thiền làm duyên cho tâm thiện sinh khởi, nhờ vậy đã vun bồi được sự an tịnh tới mức độ cao như cận định và an chỉ định. Ở thời điểm đắc thiền (jhana), định đạt tới mức độ an chỉ (appanā) và tâm này có thể đè nén tạm thời các phiền não khiến chúng không thể sinh khởi trong suốt thời gian đó. Tại khoảnh khắc của tâm thiền không có dấu ấn của ngũ quan, sẽ chỉ có sự kinh nghiệm đối tượng của đề mục thiền qua ý môn và đó là duyên để tâm được thiết lập vững chãi trong sự an tịnh và trụ trên đối tượng ấy, khi đó tâm đạt được sự tuyệt hảo, tâm là "đáo đại". Tuy nhiên, việc đắc thiền đạt được khi các tâm thiền sinh khởi không dẫn tới sự tận diệt phiền não. Khi tâm thiền diệt đi, các phiền não lại có cơ hội sinh khởi trở lại. 

V. Tâm siêu thế

Chỉ sau khi Giáo pháp của Đức Phật xuất hiện trên thế gian, sự tận diệt phiền não theo từng mức độ tương ứng với các tầng Thánh quả mới xuất hiện. Ví dụ với trường hợp của vị Thánh Bất lai (Anāgāmī), người đã đạt được tầng giác ngộ thứ ba. Vị ấy vẫn thấy nhưng không bị dính mắc vào cái được thấy (đối tượng thị giác) bởi vì vị ấy đã tận diệt được sự dính mắc vào ngũ dục. Vị ấy đã hoàn toàn diệt trừ được dính mắc với các đối tượng nghe, nhìn, ngửi, nếm và xúc chạm. Tâm thiện siêu thế, hay còn gọi là tâm đạo (magga citta) có thể diệt trừ phiền não một cách hoàn toàn. 
Tâm siêu thế (lokuttara citta) thì chỉ có thể có hai chủng loại là thiện và quả. Không có tâm siêu thế duy tác. Tương ứng với mỗi giai đoạn giác ngộ có một tâm đạo (magga citta = tâm thiện siêu thế lokuttara kusala citta) và một tâm quả siêu thế (phala citta = lokuttara vipākacitta) , vì thế có tám loại tâm siêu thế như sau: 
  • Tâm đạo Dự lưu (Sotāpatti magga citta) là tâm thiện siêu thế
  • Tâm quả Dự lưu (Sotāpatti phala citta) là tâm quả thiện siêu thế
  • Tâm đạo Nhất lai (Sakadāgāmī magga citta) là tâm thiện siêu thế
  • Tâm quả Nhất lai (Sakadāgāmī phala citta) là tâm quả thiện siêu thế
  • Tâm đạo Bất lai (Anāgāmī magga citta) là tâm thiện siêu thế
  • Tâm quả Bất lai (Anāgāmī phala citta) là tâm quả thiện siêu thế
  • Tâm đạo A la hán (Arahatta magga citta) là tâm thiện siêu thế
  • Tâm quả A la hán (Arahatta phala citta) là tâm quả thiện siêu thế
Các tâm thiện siêu thế là duyên để tâm quả siêu thế tiếp nối ngay lập tức. Không có loại tâm nào khác sinh khởi giữa tâm thiện siêu thế là nhân và tâm đạo siêu thế là quả. Ngoài tâm thiện siêu thế thì không có bất cứ tâm thiện nào có thể làm sinh khởi tâm quả lập tức sau đó.

Bốn loại tâm quả siêu thế nói trên không thể đảm nhận chức năng tái sinh, hộ kiếp (bhavanga) và chức năng tử. Chúng khác với các tâm quả hiệp thế ở điểm này. Các loại tâm quả siêu thế tiếp nối ngay sau tâm thiện siêu thế cũng có đối tượng là Niết bàn. Tâm quả siêu thế đảm nhận chức năng tốc hành (javana) trong cùng một lộ trình với tâm thiện siêu thế trước nó. Loại tâm quả duy nhất có thể đảm nhận chức năng tốc hành trong một lộ trình là tâm quả siêu thế. Tâm quả siêu thế đảm nhận chức năng tốc hành tâm vì nó có Niết bàn làm đối tượng. 

Mỗi loại tâm thiện siêu thế sinh khởi chỉ một lần trong vòng sinh tử luân hồi và tận diệt hoàn toàn phiền não tương ứng với mức độ giác ngộ đã đạt được. Tuy nhiên, có hai hoặc ba tâm quả siêu thế sinh khởi sau tâm thiện siêu thế; chúng nối tiếp nhau và có Niết bàn làm đối tượng. 

Vị Dự lưu không còn tái sinh nhiều hơn bảy lần nữa. Khi một vị Dự lưu tái sinh thì loại tâm quả khác tâm quả Dự lưu sẽ đảm nhận chức năng tái sinh (vì tâm quả Dự lưu không thể đảm nhận chức năng tái sinh được). Ví dụ nếu vị Dự lưu tái sinh ở cõi trời dục giới, các tâm quả dục giới sẽ đảm nhận chức năng tái sinh. Nếu vị Dự lưu tái sinh ở cõi Phạm thiên, các tâm quả sắc giới hoặc vô sắc giới sẽ đảm nhận chức năng tái sinh tương ứng với cõi ấy.

 --> tiếp theo

--- Lời bạt của người viết ----

Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch. 

Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.

---- Lưu ý (disclaimer) ----

Comments

Popular Posts