Nhập môn Pháp chân đế: VI. Các khía cạnh khác nhau của 4 pháp chân đế
I. Pháp hữu vi là các thực tại duyên khởi
Tâm (citta), tâm sở (cetasika), sắc (rūpa) và niết bàn (nibbanā) là các pháp chân đế; chúng là các thực tại. Tâm, tâm sở và sắc thì sinh và diệt một cách liên tiếp, chúng xuất hiện và vì thế chúng có thể được nhận biết, được hiểu rằng chúng là các thực tại. Chẳng hạn khi ta thấy mầu, nghe âm thanh hay suy nghĩ thì khi đó có các tâm sinh diệt một cách liên tiếp và thực hiện các chức năng khác nhau: một số tâm thấy mầu sắc, một số tâm khác nghe âm thanh, một số tâm khác suy nghĩ, tuỳ theo loại tâm và các duyên tố dẫn đến sự sinh khởi của các tâm ấy. Chúng ta không hề nhận ra sự sinh và diệt của chúng là bởi vì sự tiếp nối của các tâm, tâm sở và sắc diễn ra vô cùng nhanh. Chúng sinh diệt liên tiếp cực kỳ nhanh vì thế mọi người thường lầm tưởng rằng sắc chỉ thay đổi dần dần và rằng khi ai đó hay một chúng sinh nào đó sinh ra thì lúc đó có một tâm sinh khởi và vẫn là tâm đó tồn tại kéo dài suốt cả cuộc đời cho đến lúc người ấy hay chúng sinh ấy chết đi. Sự nhầm tưởng này còn kéo dài chừng nào chúng ta không nghiên cứu và suy xét Giáo pháp, không phát triển chánh niệm (tâm sở sati) và trí tuệ (tâm sở paññā) để có thể chứng nghiệm được những đặc tính của tâm, tâm sở và sắc; và chúng ta sẽ mãi vô minh về bản chất thực của danh sắc (tức là tâm, tâm sở và sắc) sinh diệt không ngừng nghỉ.
Các pháp có thể sinh khởi là do có những yếu tố làm duyên cho sự sinh khởi của chúng mà nếu thiếu những duyên tố này, chúng không thể sinh khởi. Chúng ta có thể đọc lại bài kệ mà đại đức Sariputta đã được nghe ngay trước khi ngài đạt Thánh quả đầu tiên:
"Pháp sinh lên do nhân, Như lai giảng nhân ấy. Nhân diệt thời pháp diệt, Đại sa môn nói vậy"
Nếu như Đức Phật không xuất hiện, không giác ngộ Phật quả và xuyên thấu bản chất của toàn bộ các pháp để rồi giảng về các pháp cũng như các duyên hệ giữa chúng, sẽ không ai có thể biết được pháp nào sinh khởi bởi những duyên nào; sẽ không ai biết được các pháp làm duyên cho sự sinh khởi của từng loại tâm, tâm sở và sắc chân đế pháp. Đức Phật dạy rằng tất cả các pháp sinh khởi đều phải do các duyên tố tương ứng và Ngài cũng dạy các duyên tố nào làm duyên cho sự sinh khởi của pháp nào.
Con người, các chúng sinh và các chư thiên sinh ra ở các cõi khác nhau trên thực tế chỉ là các loại tâm nhất định sinh kèm với các tâm sở và các sắc nhất định do những duyên tố hết sức đa dạng và phức hợp khác nhau.
Các pháp sinh khởi do duyên được gọi là các pháp hữu vi (saṅkhāra dhamma). Tâm, tâm sở và sắc chân đế pháp do đó là các pháp hữu vi.
II. Pháp hữu vi cũng đồng thời là pháp sinh diệt
Đức Phật dạy rằng các pháp sinh khởi do duyên được gọi là các pháp hữu vi; đồng thời ngài cũng dạy thêm rằng tất cả các pháp hữu vi cũng là các pháp sinh lên rồi diệt đi (saṅkhata dhamma), để không có hiểu nhầm rằng các pháp đã sinh rồi sau đó có thể tiếp tục tồn tại. Cả hai thuật ngữ saṅkhata dhamma và saṅkhāra dhamma đã làm rõ rằng một pháp sinh khởi bởi các duyên tố thì cũng phải diệt đi khi các duyên tố cho sự sinh khởi của pháp ấy diệt đi. Các pháp hữu vi vì thế đồng thời là các pháp hữu sinh và hữu diệt. Các pháp hữu vi ở đây chính là các pháp chân đế bao gồm tâm, tâm sở và sắc, chúng vừa là các pháp hữu vi vừa là các pháp sinh diệt.
III. Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường
Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường. Sự hoại diệt (và vì thế là vô thường) của sắc pháp là khá rõ ràng, nhưng sự vô thường của danh pháp thì khó nhận ra hơn.
Mặc dù tâm, tâm sở và sắc luôn luôn sinh diệt, rất khó mà thấu hiểu được điều này để đi đến buông xả, từ bỏ dính mắc vào danh (nama) và sắc (rūpa). Danh (tâm, tâm sở) và sắc cần được thẩm xét và hiểu bởi trí tuệ (tâm sở paññā) để sự dính mắc có thể được diệt trừ.
Tất cả hành vô thường
Với tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
Khi ta chưa liễu ngộ được sự sinh diệt của danh pháp và sắc pháp để nhờ đó sự dính mắc vào tà kiến được loại bỏ, ta chưa thể xuyên thấu được Tứ Thánh Đế để trở thành bậc thánh nhân.
IV. Tất cả các pháp hữu vi đều khổ (dukkha)
Tất cả các pháp hữu vi đều sinh và diệt, cho dù là tâm thiện hay bất thiện, dù là sắc đẹp hay sắc xấu, tất cả đều sinh và diệt như nhau. Sự sinh và diệt của thực tại, tính vô thường của chúng là khổ (dukkha). Bản chất khổ (dukkha) nội tại của các pháp hữu vi không chỉ bao hàm những kinh nghiệm đau khổ khi đau đớn trên thân, khi bệnh tật hay gặp gian truân, khi phải xa lìa người thân yêu hoặc phải sống cùng với người không ưa thích. Bản chất khổ (dukkha) hàm chứa trong tất cả các pháp hữu vi chính là ở sự vô thường của chúng; khi vừa sinh khởi thì chúng đã diệt đi và vì vậy chúng không thể được coi là phúc lạc. Một số người có thể thắc mắc tại sao tất cả các pháp hữu vi đều là khổ, tại sao cả những tâm kinh nghiệm hạnh phúc và hưởng thụ các đối tượng khả ái cũng là khổ? Kể cả các tâm kinh nghiệm hạnh phúc cũng tồn tại ngắn ngủi và vì vậy chúng là khổ. Tất cả các pháp hữu vi: tâm, tâm sở và sắc đều là khổ vì chúng là vô thường, chúng không trường tồn.
V. Tất cả các pháp đều vô ngã
Cả 4 pháp chân đế: tâm, tâm sở, sắc và niết bàn đều vô ngã, chúng không phải là tự ngã nào cả, chúng không nằm trong sự kiểm soát của ai cả.
Niết bàn tuy không phải pháp hữu vi nhưng niết bàn cũng là vô ngã. Đối nghịch với pháp hữu vi sinh rồi diệt do duyên, Niết bàn là pháp vô vi (visaṅkhāra dhamma) và không sinh khởi do bất cứ duyên tố nào. Niết bàn không sinh khởi và không diệt đi, nó là phi duyên khởi.
Tâm, tâm sở và sắc đều là pháp hữu vi, chúng thuộc về thế gian: lokiya, chúng đều hoại diệt. Niết bàn là pháp vô vi và là pháp siêu thế - lokuttara (vượt lên thế gian, thoát khỏi thế gian)
Tất cả hành vô ngã
Với tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
VI. Pháp hữu vi, pháp chân đế và Ngũ uẩn
- Pháp hữu vi bao gồm 3 pháp chân đế: Tâm, Tâm sở và Sắc pháp
- Pháp vô vi là 1 pháp chân đế duy nhất: Niết bàn
- Ngũ uẩn (khandha) bao gồm: Sắc uẩn (tất cả các loại Sắc pháp), Thọ uẩn (1 tâm sở Thọ), Tưởng uẩn (1 tâm sở Tưởng), Hành uẩn (50 tâm sở ngoài Thọ và Tưởng), Thức uẩn (tất cả các loại Tâm), nhìn từ phía ngược lại thì
- Tâm (citta) là Thức uẩn
- Tâm sở (cetasika) bao gồm Thọ uẩn, Tưởng uẩn và Hành uẩn
- Sắc (rūpa) là Sắc uẩn
- Niết bàn thì không phải là uẩn, nó hoàn toàn thoát ly uẩn (khandha vimuta)
Từ uẩn (khandha) ở đây nói đến pháp (dhamma), pháp ở đây là các pháp hữu vi do duyên tạo, sinh và diệt. Đối lập với nó là Niết bàn hay pháp vô vi, là pháp không sinh khởi, không do duyên tạo. Không thể nói Niết bàn đã sinh khởi, chưa sinh khởi hay sẽ sinh khởi. Nó không thể được mô tả trong quá khứ, tương lai hay hiện tại. Niết bàn không phải là uẩn.
--> tiếp theo
--- Lời bạt của người viết ----
Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch.
Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.
---- Lưu ý (disclaimer) ----
Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.
Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.
Comments
Post a Comment