Nhập môn Pháp chân đế: XXX. Các tầng tuệ minh sát

 Khi trí tuệ (paññā) trở nên sắc bén và viên mãn hơn, các tâm đại thiện hợp trí ở mức độ minh sát tuệ (vipassanā ñāṇa) có thể sinh khởi. Trí tuệ minh sát là loại trí tuệ có thể chứng ngộ rõ ràng các đặc tính của danh và sắc qua ý môn, phát triển theo tuần tự tương ứng với các tầng tuệ. Có nhiều tầng tuệ cần được liễu tri trước khi có thể đạt giác ngộ.

I. Tuệ phân biệt danh sắc (nāma-rūpa-pariccheda-ñāṇa)

Ở tầng tuệ thứ nhất này, tâm đại thiện hợp trí sinh khởi và phân biệt một cách rõ ràng các đặc tính của danh và các đặc tính của sắc khi chúng xuất hiện từng cái một. Các đối tượng tạo nên "thế gian" xuất hiện và không có tự ngã nào trong đó. Ở khoảnh khắc ấy, không có nhớ tưởng sai lầm về ngã, cái vẫn thường nhớ hay nhận thức các thực tại theo hình khối. Khi ấy bắt đầu có nhớ tưởng đúng đắn về các thực tại đang xuất hiện, rằng chúng là vô ngã. Satipaṭṭhāna hay tứ niệm xứ cần phải tiếp tục hay biết tất cả các loại danh và sắc, ngoài những thực tại đã được biết ở khoảnh khắc của tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa).

Khi khoảnh khắc của tuệ minh sát diệt đi, thế gian lại xuất hiện trở lại như một hình khối. Người phát triển satipaṭṭhāna biết một cách rõ ràng sự khác biệt giữa khoảnh khắc của tuệ minh sát và khoảnh khắc không phải tuệ minh sát. Khi tầng tuệ thứ nhất được chứng ngộ, sẽ có trí hiểu biết trọn vẹn về những gì đã hiểu (ñāta pariññā) (trí đạt toàn tri hay thắng tri). 

II. Tuệ phân biệt duyên của danh và sắc (paccaya-pariggaha-ñāṇa)

Khi tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna) tiếp tục hay biết các thực tại xuất hiện và thẩm sát các đặc tính của chúng, sẽ có thêm hiểu biết về các duyên khiến chúng sinh khởi. Khi chỉ một đối tượng xuất hiện đơn lẻ, trí tuệ có thể nhận ra rằng danh (nāma) sinh khởi là do duyên. Bằng cách ấy, trí tuệ có thể thấy rõ ràng hơn đặc tính vô ngã của tất cả các pháp, dần dần sẽ bớt đi sự dính mắc vào ý niệm về ngã. 

Khi các chi của Bát Chánh Đạo đã được phát triển đến mức độ cao, chúng có thể tạo duyên cho sự sinh khởi của tuệ minh sát thứ hai, đó là tuệ phân biệt duyên (paccaya-pariggaha-ñāṇa), tuệ giác trực nhận sự phụ thuộc vào duyên của danh và sắc ở khoảnh khắc chúng sinh khởi. Tức là, có chánh niệm và trí tuệ trực nhận sự sinh khởi của các thực tại như cái nghe, âm thanh, thọ hỷ, thọ ưu hay suy nghĩ. Tất cả các pháp này đều sinh khởi bởi những duyên riêng của chúng, được trực nhận từng pháp một một cách rõ ràng và tách biệt với nhau. Trí tuệ sẽ hiểu rằng không có tự ngã nào đằng sau chúng.

III. Tuệ thấu đạt (sammāsana ñāṇa)

Đây là tầng tuệ thứ ba, ở đây tuệ giác chứng ngộ rõ ràng sự sinh và diệt một cách nhanh chóng của danh và sắc. Chừng nào tuệ minh sát này chưa sinh khởi, dù ta biết rằng danh (nāma) và sắc (rūpa) sinh diệt rất nhanh nhưng sự tiếp nối nhanh chóng của các danh sắc sinh và diệt vẫn chưa xuất hiện. Ở tầng tuệ thứ nhất và thứ hai, trí tuệ có thể xuyên thấu các đặc tính của từng danh và sắc một cách tách rời, nhưng vẫn chưa giác ngộ được sự sinh và diệt tiếp nối nhanh chóng của chúng.

*Tuệ Tư

Tầng tuệ thứ nhất, thứ hai và thứ ba chỉ là những giai đoạn sơ khởi, được gọi là tuệ minh sát yếu (taruṇa vipassanā). Chúng chưa phải là tuệ lực (balava vipassanā), tức là khi tuệ minh sát đã trở nên mạnh mẽ hơn nữa về sau. Ở ba tầng tuệ này vẫn còn có suy nghĩ về các danh và sắc được kinh nghiệm trực tiếp. Mặc dầu có suy nghĩ, các pháp riêng rẽ khi ấy không bị liên kết thành một khối như ta vẫn luôn thấy. Cũng do vẫn còn suy nghĩ về danh và sắc nên paññā khi ấy được gọi là cintā paññā (tuệ tư, cintā có nghĩa là tư duy/ suy nghĩ).

Một số người có thể tưởng rằng khi có sự suy xét và nhận ra các đặc tính của danh và sắc là đã có tuệ minh sát yếu, hoặc cho rằng mình đã chứng được tầng tuệ minh sát thứ nhất là tuệ phân biệt danh sắc. Một số người lại cho rằng khi họ suy xét về danh sắc và biết rằng danh này được tạo duyên bởi sắc kia và sắc này được tạo duyên bởi danh kia, là tuệ minh sát thứ hai tức là tuệ thấy nhân duyên đã sinh khởi. Một người thậm chí chưa biết sự khác biệt giữa các đặc tính của danh và các đặc tính của sắc cũng có thể cho rằng mình đã kinh nghiệm được sự sinh và diệt của các danh, danh này sau danh khác và rằng đó là tuệ minh sát thứ ba.

Sở dĩ có những hiểu lầm như trên trước tiên bởi vì người ấy không biết rằng bản thân tuệ minh sát phải xuất hiện với tính chất vô ngã. Khi tuệ minh sát sinh khởi, các đặc tính của danh và sắc xuất hiện qua ý môn. Các sắc được kinh nghiệm trong lộ trình ngũ môn qua các môn tương ứng và sau đó lại được kinh nghiệm qua lộ tâm ý môn tiếp nối. Tuy nhiên, khi chưa có tuệ minh sát, những lộ trình qua ý môn đó chưa xuất hiện; nó như thể bị che lấp bởi các đối tượng ngũ môn. Thế nhưng ở khoảnh khắc của tuệ minh sát, sắc xuất hiện một cách rõ ràng qua ý môn và khi đó lộ trình ý môn như thể che lấp lộ trình ngũ môn. Khi không có tuệ minh sát, tình huống là hoàn toàn ngược lại. 

Chừng nào tuệ minh sát thứ nhất (tuệ phân biệt danh sắc) chưa sinh khởi, các tầng tuệ sau vẫn chưa thể sinh khởi. Một khi minh sát tuệ đã xuất hiện, ta hiểu tính chất của nó là vô ngã, nó sinh khởi bởi các duyên riêng của nó và ta sẽ không nhầm tưởng rằng đã có tuệ minh sát trong khi thực ra chưa có. Nếu một người chưa phát triển tứ niệm xứ đến mức chánh niệm có khả năng thẩm xét, ghi nhận các đặc tính của danh và sắc khi chúng xuất hiện trong đời sống hàng ngày, lặp đi lặp lại, chưa có chánh niệm về các đặc tính của các loại danh khác nhau xuất hiện, người ấy không thể trực nhận rằng danh chỉ là một thực tại kinh nghiệm. Người ấy tưởng rằng mình đang kinh nghiệm sự sinh diệt của danh, nhưng thực chất chưa biết danh là gì, người ấy vẫn nhầm lẫn giữa danh và sắc. Người ấy chưa biết rằng danh hoàn toàn khác với sắc.


IV. Tuệ sinh diệt (udayabbaya ñāṇa)

Ở tầng tuệ thứ ba, tuệ giác vẫn chưa đủ sắc bén để thấy được hiểm họa và sự bất lợi của sinh và diệt. Sự sinh khởi nhanh chóng của một pháp mới ngay sau sự diệt đi của pháp cũ che lấp hiểm họa này. Khi trí tuệ trở nên sắc bén hơn và đạt đến tầng tuệ thứ tư, tuệ giác có thể xuyên thấu một cách rõ ràng hơn sự sinh và diệt của mỗi loại danh và mỗi loại sắc riêng biệt. Tất cả các loại danh và sắc đều có thể là đối tượng của hiểu biết, cho dù là thiện pháp hay bất thiện pháp, cho dù ở mức độ nào hay xuất hiện qua căn môn nào. 

Tầng tuệ thứ tư có thể sinh khởi khi hiểu biết trọn vẹn về thẩm sát (tīraṇa pariññā) đã viên mãn (toàn tri thẩm sát hay tuệ tri), đây là loại trí tuệ suy xét và hiểu rõ đặc tính của các loại danh và sắc khi chúng xuất hiện qua sáu căn. 

Các đặc tính của danh và sắc xuất hiện qua mỗi căn môn là hoàn toàn khác nhau. Nếu trí tuệ vẫn chưa hiểu một cách chi tiết sự khác biệt này, sự sinh và diệt của danh và sắc sẽ không thể được chứng ngộ.

V. Tuệ diệt (bhanga ñāṇa)

Mặc dầu tuệ minh sát thứ tư đã chứng ngộ một cách rõ ràng sự sinh và diệt của từng đặc tính một của danh và sắc, dính mắc vào chúng vẫn còn rất ngoan cố do đã được tích luỹ từ vô thuỷ. Vô minh và dính mắc vào các khái niệm về ngã giống như rễ cây bám chắc rất khó nhổ đi. Cần phải tiếp tục có chánh niệm và trí tuệ thẩm sát nhiều lần về sự sinh diệt của danh và sắc đã được chứng ngộ ở tầng tuệ thứ tư. Trí tuệ cần phải suy xét kỹ lưỡng hơn sự diệt đi của các danh và sắc đang xuất hiện, khi ấy mới có thể thấy rằng các pháp diệt đi không thể là nơi nương tựa. Trí tuệ sẽ trở nên sắc bén và trọn vẹn hơn để rồi có đủ duyên cho sự sinh khởi của tầng tuệ thứ năm, gọi là tuệ diệt (bhanga ñāṇa).

Tầng tuệ thứ năm này nhận rõ danh sắc sinh và diệt không thể là nơi nương tựa, chúng không mang tới sự an toàn. Khi ấy, có sự khởi đầu của pariññā (toàn tri) thứ ba, tức là hiểu biết trọn vẹn về đoạn trừ (pahāra pariññā - toàn tri đoạn trừ hay liễu tri). Toàn tri này có thể dẫn đến các tầng tuệ giác cao hơn nữa, đến mức độ trí tuệ bắt đầu xả ly khỏi sự dính mắc vào ý niệm về ngã, con người hay chúng sinh.

VI. Tuệ uý (bhaya ñāṇa)

Khi tuệ diệt đã diệt đi, người phát triển minh sát nhận ra rằng phiền não vẫn còn rất mạnh, rằng vẫn còn duyên cho phiền não sinh khởi tuỳ theo mức độ tích luỹ. Người ấy suy xét kỹ lưỡng các đặc tính của sự diệt đi của danh và sắc, nhưng dính mắc vào ý niệm về ngã vẫn còn kiên cố. Trí tuệ vẫn phải tiếp tục suy xét về danh và sắc và nhờ đó thấy được rõ hơn hiểm họa và bất lợi, tính chất bất toại nguyện của sự diệt đi của các thực tại là danh và sắc. Khi tuệ giác đã trở nên trọn vẹn hơn, sẽ có đủ duyên cho sự sinh khởi của tầng tuệ thứ sáu, được gọi là tuệ uý (bhaya ñāṇa). Tuệ giác này thấy được hiểm họa của danh và sắc ở khoảnh khắc thấy rõ sự sinh và diệt của danh và sắc.

VII. Tuệ thấy hiểm họa của ngũ uẩn (ādīnava ñāṇa)

Tuệ uý (bhaya ñāṇa) thấy được bất lợi của sự sinh và diệt của danh và sắc, tuy nhiên, khi tuệ giác này diệt đi, sự dính mắc vào ý niệm về ngã vẫn có thể sinh khởi, nó vẫn chưa được tận diệt hoàn toàn. Người phát triển tứ niệm xứ hiểu rằng mối hiểm họa và bất lợi của danh và sắc sinh và diệt cần phải được liễu tri một cách sâu sắc hơn nữa và dưới nhiều khía cạnh hơn nữa. Khi chánh niệm hay biết đặc tính của thực tại sinh và diệt, trí tuệ trở nên sắc bén hơn và thấy một cách rõ ràng hơn tính bất lợi của sự sinh và diệt của danh và sắc. Trí tuệ trở nên trọn vẹn đến mức độ có thể tạo duyên cho sự sinh khởi của tuệ thấy hiểm họa của ngũ uẩn (ādīnava ñāṇa), loại tuệ giác thấy rõ ràng hiểm họa và bất lợi của danh và sắc sinh và diệt.

VIII. Tuệ chán nản (nibbidā ñāṇa)

Khi mối hiểm họa của tất cả các thực tại hữu vi đã được liễu ngộ, chúng dường như là một toà nhà đang bén cháy. Sự dính mắc vào cuộc sống trở nên suy giảm khi ta thấy rõ sự vô ích của danh và sắc đang xuất hiện. Khi ấy, sẽ có tuệ chán nản (nibbidā ñāṇa)

IX. Tuệ muốn giải thoát (muccitukamyatā ñāṇa)

Khi tuệ giác thấy được rõ ràng hơn sự vô ích của danh và sắc đang xuất hiện, nó trở nên thờ ơ với chúng, trí tuệ sẽ muốn được giải thoát khỏi danh và sắc sinh diệt. Trí tuệ đó gọi là tuệ muốn giải thoát (muccitukamyatā ñāṇa) 

X. Tuệ suy đạt (paṭisaṅkhā ñāṇa)

Khi tuệ muốn giải thoát sinh khởi và trở nên mạnh mẽ hơn nữa, tuệ giác sẽ hướng đến việc suy xét đi suy xét lại nhiều lần ba đặc tính chung (tam tướng) của các thực tại hữu vi, đó là: vô thường, khổ và vô ngã. Khi trí tuệ thấy rõ ràng đặc tính vô thường (aniccā) của tất cả các thực tại hữu vi sinh và diệt, nó hiểu được rằng chúng không có gì đảm bảo, rất tạm bợ, mong manh, luôn thay đổi và không thể nương náu. Khi trí tuệ thấy rõ ràng đặc tính khổ (dukkha) của tất cả các thực tại hữu vi sinh và diệt, nó sẽ thấy chúng luôn o ép, như một sự đe dọa mà không có cách nào trốn chạy, như một căn bệnh trầm kha, như một mối nguy hiểm, một thứ bất khả ái và không đáng bám víu vào. Khi trí tuệ thấy rõ ràng đặc tính vô ngã của tất cả các thực tại sinh và diệt, nó thấy rằng chúng là rỗng không, trống rỗng, một cái gì đó không thể sở hữu, không thể kiểm soát. Tuệ giác thấy được cả ba đặc tính của tất cả các thực tại hữu vi (saṅkhāra dhamma) đó gọi là tuệ suy đạt (paṭisaṅkhā ñāṇa)

XI. Tuệ xả hành (saṅkhārupekkhā ñāṇa)

Khi trí tuệ chứng ngộ một cách rõ ràng tam tướng của các thực tại hữu vi trở nên hoàn mãn hơn, sẽ bớt có xu hướng cho các thực tại hữu vi là thường, lạc và ngã. Như vậy, sẽ có thêm sự xả ly với các pháp. Người phát triển vipassanā biết rằng chừng nào niết bàn còn chưa xuất hiện và do vậy trí tuệ còn chưa xuyên thấu được đặc tính của niết bàn, người ấy vẫn còn phải tiếp tục suy xét bất kỳ đặc tính nào của tam tướng khi nó xuất hiện. Tuệ giác dẫn đến tâm xả đối với các pháp hữu vi sinh và diệt được gọi là tuệ xả hành (saṅkhārupekkhā ñāṇa). Tuệ giác này chính là minh sát tuệ dẫn tới sự chứng ngộ tối thượng; nó dẫn tới sự vượt lên. Đó là trí tuệ tạo duyên cho một người rời bỏ trạng thái phàm phu và điều này xảy ra khi tâm đạo (magga-citta) sinh khởi.

XII. Tuệ thuận thứ (anuloma ñāṇa)

Tuệ thuận thứ là tuệ minh sát sinh khởi trong lộ trình đạt giác ngộ, tức là đạo lộ (magga vīthi). Loại tuệ giác này tương hợp với tuệ tri rõ ràng về Tứ Thánh Đế. Tuệ thuận thứ là ba khoảnh khắc của tâm đại thiện hợp trí sinh khởi trong đạo lộ: tâm chuẩn bị (parikamma), cận định (upacāra) và thuận thứ (anuloma). Cả ba tâm này đều có đối tượng là một trong ba đặc tính của tam tướng. Chúng liễu tri pháp hữu vi xuất hiện ở khoảnh khắc đó là vô thường, khổ hay vô ngã. Tuệ thuận thứ này thuận với sự buông bỏ các đối tượng là pháp hữu vi.

XIII. Tuệ chuyển tánh (gotrabhū ñāṇa)

Tuệ giác này tiếp nối tuệ thuận thứ, nó chính là tâm đại thiện hợp trí có niết bàn làm đối tượng, nó cũng là tập hành duyên (asevana paccaya) cho tâm đạo tiếp theo (tâm thiện siêu thế có niết bàn làm đối tượng và tận diệt phiền não).

Trong lộ trình tâm, thường thì cả bảy tốc hành tâm (javana citta) đều có cùng một đối tượng, nhưng lộ tâm đạo thì không như vậy. Các tâm chuẩn bị, cận định và thuận thứ sẽ có đối tượng là một trong ba đặc tính của thực tại. Các tâm tiếp theo trong lộ trình ấy sẽ là tâm chuyển tánh, tâm đạo và các tâm quả (phala citta) có niết bàn làm đối tượng. Tâm chuyển tánh là tâm đại thiện đầu tiên kinh nghiệm niết bàn, tuy nhiên nó chỉ có thể chứng ngộ niết bàn nhưng không tận diệt được phiền não, nên nó được gọi với tên "hướng tới Đạo". Tâm đạo tiếp nối sau tâm chuyển tánh thì tận diệt được phiền não trong khi kinh nghiệm niết bàn.

XIV. Tuệ đạo (magga ñāṇa)

Khi tuệ chuyển tánh đã diệt đi, nó được tiếp nối bởi tâm đạo Dự lưu và tâm này vượt qua trạng thái phàm phu và đạt tới trạng thái của bậc Thánh nhân (Ariyan). Tâm này tận diệt phiền não tương ứng với giai đoạn giác ngộ đạt được.

XV. Tuệ quả (phala ñāṇa)

Khi tâm đạo của một vị Dự lưu diệt đi, nó tạo duyên cho sự sinh khởi của tâm tiếp theo, đó là tâm quả (phala citta). Tâm quả này cũng là tâm quả siêu thế (lokuttara vipāka citta). Tâm thiện siêu thế là nghiệp duyên cho tâm quả tiếp nối không chậm trễ, không cần có các tâm khác giữa chúng và vì vậy, nó được gọi là không chậm trễ hay tức khắc trổ quả (akāliko). Như vậy, tâm quả siêu thế thì khác với các loại tâm quả khác, chúng đảm nhận chức năng của tốc hành tâm trong lộ trình tâm, khác với chức năng bình thường của các loại tâm quả khác.

XVI. Tuệ hồi quán (paccavekkhaṇa ñāṇa)

Khi tâm đạo lộ đã diệt đi, chúng được tiếp nối bởi các tâm hộ kiếp (bhavanga citta) và rồi các tâm thuộc lộ trình ý môn sinh khởi với chức năng hồi quán sự giác ngộ đã đạt được. Trong một lộ trình, các tâm này hồi quán tâm đạo, trong một lộ trình khác hồi quán tâm quả, trong một lộ trình khác hồi quán phiền não đã được tận diệt, trong một lộ trình khác nữa hồi quán các phiền não vẫn còn tồn tại và trong một lộ trình nữa hồi quán niết bàn. 

Những người chứng A la hán đạo và A la hán quả thì không có lộ tâm hồi quán các phiền não còn tồn tại nữa vì tâm đạo của vị A la hán đã tận diệt phiền não hoàn toàn.

Việc trình bày các giai đoạn khác nhau của tuệ minh sát - từ tuệ giác đầu tiên cho tới tuệ thuận thứ - sinh khởi trước khi đạt được giác ngộ - chỉ ra rằng, sự phát triển tuệ giác là một lộ trình dài lâu. Rất từ từ, tuệ giác trở nên sắc bén hơn, viên mãn hơn để tuệ thuận thứ có thể sinh khởi và tương hợp với sự chứng ngộ niết bàn.

--- Lời bạt của người viết ----

Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch. 

Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.

---- Lưu ý (disclaimer) ----

Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.

Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.

Comments

Popular Posts