Nhập môn Pháp chân đế: XVI. Tâm và Tâm sở
Cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) nói về một số khía cạnh của tâm (citta) như sau:
- Được gọi là tâm vì nó biết rõ đối tượng
- Được gọi là tâm vì nó được tích luỹ do năng lực của luồng tốc hành tâm trong lộ trình
- Được gọi là tâm vì nó là pháp tích luỹ quả của nghiệp và các phiền não
- Được gọi là tâm vì nó muôn mầu muôn vẻ (vicitta) tương ứng với bối cảnh và bởi các pháp đồng sinh.
Ở đây chúng ta sẽ xem xét thêm khía cạnh thứ tư nói trên. Nói các tâm muôn mầu muôn vẻ có nghĩa là tất cả cả tâm đều khác biệt, sự muôn mầu muôn vẻ này đến từ các pháp đồng sinh: tâm sở. Tâm và tâm sở được gọi là các pháp tương hợp (sampayutta dhamma). Trong bốn loại pháp chân đế: tâm, tâm sở, sắc pháp và niết bàn thì Tâm và Tâm sở có tính chất đặc trưng của các pháp tương hợp: Luôn sinh khởi cùng nhau, không thể tách rời nhau, đồng sinh và đồng diệt, có cùng chung đối tượng (cảnh) và ở trong những cõi có ngũ uẩn (danh và sắc) chúng có cùng căn (nơi xuất xứ).
Tương hợp là một đặc tính riêng chỉ có ở danh (tâm và tâm sở). Sắc thì hoàn toàn khác. Mặc dù các sắc sinh và diệt cùng nhau nhưng chúng không phải là các pháp tương hợp.
Khi chúng ta nghe và nghiên cứu về đặc tính của các pháp tương hợp trong Giáo pháp, có thể có duyên để hiểu rằng danh hoàn toàn khác biệt với sắc. Như thế, nếu có sự suy xét đúng đắn về các đặc tính này, có thể có sự tích lũy các duyên cho sự sinh khởi của chánh niệm (sati) và trí tuệ (paññā). Khi có đủ duyên, chánh niệm của tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna) sẽ sinh khởi, nó thẩm xét và hay biết đặc tính của danh và sắc, một thứ tại một thời điểm, cho đến khi danh và sắc xuất hiện một cách tách biệt rõ ràng, không hoà trộn, mặc dầu chúng (danh và sắc) có thể sinh khởi cùng một thời điểm.
I. Sự muôn mầu muôn vẻ của tâm
Tâm của một người này thì hoàn toàn khác với tâm của một người khác do những nghiệp khác nhau trong quá khứ tạo duyên cho những loại quả khác nhau với những người khác nhau trong hiện tại. Hình thức bề ngoài và đặc điểm thân thể của các loài thú và loài người trong thế giới này cũng hoàn toàn dị biệt bởi sự đa dạng của nhân, của nghiệp .... Những chúng sinh khác nhau kinh nghiệm những ngọn gió đời của được - mất, vinh - nhục, sướng - khổ, khen - chê không giống nhau. Tất cả những yếu tố này là quả, sinh khởi bởi những nhân khác nhau trong quá khứ.
Quá khứ tạo duyên cho quả hiện tại khác nhau với những người khác nhau từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Chúng ta không thể biết vào ngày nào và khoảnh khắc nào chúng ta sẽ rời xa thế giới này. Không ai có thể nói mình sẽ chết trong hoàn cảnh nào, trong nhà hay ngoài đường, trên mặt đất, ở trong nước hay trên không, do bệnh tật hay do tai nạn. Tất cả đều phụ thuộc vào nghiệp đã được tạo trong quá khứ. Và không chỉ những tâm quả (vipāka citta) hiện tại mới muôn màu muôn vẻ, mà những tâm là nhân trong hiện tại, tức là những tâm thiện và bất thiện cũng rất đa dạng, đó chính là duyên khiến quả sinh khởi trong tương lai cũng rất đa dạng.
Mỗi tâm có một màu vẻ, tuỳ theo hoàn cảnh, do bởi các pháp tương hợp. Có tất cả 52 tâm sở, nhưng không phải tất cả những tâm sở ấy đều sinh khởi với mọi tâm. Các tâm khác biệt bởi số lượng cũng như số loại tâm sở sinh kèm với chúng. Điều ấy tuỳ thuộc vào loại tâm và vào tính chất (chủng loại) của tâm mà các tâm sở đi kèm. 89 loại tâm có thể là một trong bốn chủng loại thiện (kusala), bất thiện (akusala), quả (vipāka) hay duy tác (kiriya).
Tâm có tính chất thiện thì không thể là gì khác mà chỉ có thể là thiện, bất kể nó sinh khởi nơi ai. Bất thiện là bất thiện, bất kể ta là một vị tỳ kheo hay cư sĩ, bất kể địa vị, chủng tộc hay màu da. Tính chất của tâm không thể thay đổi, vì tâm là một pháp chân đế, một thực tại tuyệt đối. Khi các pháp tương hợp - tức các tâm sở - là bất thiện, tâm là bất thiện. Khi các pháp tương hợp là tịnh hảo (sobhana), tâm có thể là thiện (kusala), là quả thiện (kusala vipāka), hay duy tác tịnh hảo (sobhana kiriya citta - của những vị A la hán).
Cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasālinī) nói rằng Đức Phật đã hoàn tất một công việc khó khăn, đó là phân loại các tâm và tâm sở, định danh và đặt tên cho chúng. Cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ đã sử dụng một ẩn dụ để minh họa cho điều này như sau:
"....Thật vậy, bằng cách thấy, ngửi, hay nếm, người ta có thể phát hiện ra được sự khác biệt về màu sắc, mùi và vị của nhiều loại nước hay nhiều loại dầu, được đặt trong một cái chum và bị khuấy đều cả ngày, nhưng người ta vẫn gọi đây là một nhiệm vụ khó khăn. Nhưng một việc còn khó khăn hơn thế nữa đã được đấng Thế Tôn hoàn tất: sau khi đã phân loại từng tâm và tâm sở sinh khởi [do bởi] một đối tượng, Ngài đã định danh cho các [danh pháp] ....."
II. Bốn đặc trưng của Tâm và phân loại pháp theo Tam đề
Tâm là yếu tố dẫn đầu, là "người lãnh đạo" trong việc nhận biết đối tượng. Tâm cũng được coi là cõi (bhūmi), là mảnh đất hay cái nôi cho các tâm sở đồng sinh lệ thuộc vào. Nếu không có tâm, sẽ không thể có các tâm sở vì không có gì làm nền tảng cho chúng.
Trong kinh điển, mỗi loại tâm thường được phân tích kỹ theo bốn nét đặc trưng:
- Đặc tính
- Chức năng (phận sự)
- Biểu hiện
- Cận nhân (nhân gần)
Như đã biết, tâm được phân chia thành bốn chủng loại, khi nói đến tâm nào thì ta đều cần biết chủng loại của tâm đó là gì. Khi nói đến chủng loại tâm là quả (vipāka), chúng ta cũng cần phân biệt rõ quả thiện (kusala vipāka) và quả bất thiện (akusala vipāka).
Ví dụ nói đến tâm quả bất thiện (akusala vipāka citta), ta cần hiểu nó là kết quả của nghiệp bất thiện, không cùng chủng loại với tâm bất thiện, cũng không thể là kết quả của tâm thiện và cũng không cùng chủng loại với tâm thiện. Khi nói đến tâm duy tác, phải hiểu nó lại là một loại tâm khác, không phải là thiện, cũng chẳng phải bất thiện, cũng không phải quả. Duy tác là các tâm sinh khởi do bởi những duyên hệ khác với duyên nghiệp (kamma paccaya), nó không phải là kết quả mà nó cũng không phải là nhân có thể tạo duyên cho sự sinh khởi của quả. Các vị A la hán có tâm duy tác thay cho các tâm thiện hay bất thiện, bởi vị ấy không còn duyên cho thiện hay bất thiện nữa. Nơi một vị A la hán chỉ còn sinh khởi các tâm quả và tâm duy tác mà thôi.
Một cách phân loại khác cho các pháp mà Đức Phật đã dùng là cách chia ba như sau:
- Pháp thiện (kusala dhamma)
- Pháp bất thiện (akusala dhamma)
- Pháp vô ký (avyākata dhamma)
Trong cách chia này, tất cả các pháp chân đế không phải là pháp thiện hay bất thiện thì là pháp vô ký (avyākata dhamma), cụ thể:
- Tâm và tâm sở thiện: pháp thiện
- Tâm và tâm sở bất thiện: pháp bất thiện
- Tâm và tâm sở quả: pháp vô ký
- Tâm và tâm sở duy tác: pháp vô ký
- Tất cả các sắc: pháp vô ký
- Niết bàn (nibbāna): pháp vô ký
--- Lời bạt của người viết ----
Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch.
Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.
---- Lưu ý (disclaimer) ----
Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.
Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.
Comments
Post a Comment