Nhập môn Pháp chân đế: XXVI. Khái niệm II

I. Khái niệm tướng trạng và khái niệm chi tiết

"Bị dính mặc vào vẻ bề ngoài, ham muốn tướng trạng như là nam, nữ, dễ chịu, v.v... đó là cơ sở của sự ô nhiễm"

Khi ta dính mắc vào tướng trạng bên ngoài như là người nam hay người nữ, đối tượng khi ấy không phải là thực tại chân đế. Khi ta biết rằng mình đang thấy một người nam hay một người nữ, thực chất ta đang thấy một tướng (nimitta), tức là một khái niệm dựa trên cái xuất hiện qua mắt. Tướng trạng bên ngoài của người đàn ông hay phụ nữ là cơ sở của phiền não (tham, sân, si hay tà kiến ...). Thông qua sức mạnh của tham ái (chanda raga), ta cho hình ảnh đó là một thứ hấp dẫn. Khi ta thích một khái niệm như "cái thắt lưng" chẳng hạn, điều ấy có nghĩa là thắt lưng là một hình ảnh (nimitta) hấp dẫn. Do bởi mầu sắc xuất hiện qua mắt, có những tướng trạng khác nhau, hấp dẫn hoặc không hấp dẫn.

"Dính mắc vào các chi tiết [anuvyañjana], tức là vào các cử chỉ của tay và chân, của nụ cười, tiếng cười, lời nói, nhìn thẳng, nhìn cạnh mé, cái được gọi là "chi tiết", từ sự thể hiện, biểu lộ của các phiền não"

Chi tiết cũng làm duyên cho các phiền não xuất hiện. Khi một người thích một cái thắt lưng, thực chất người ấy thích dáng vẻ, hình ảnh và các chi tiết. Nếu tất cả các thắt lưng đều giống hệt nhau thì các chi tiết sẽ không có gì khác biệt. Tuy nhiên, có nhiều loại thắt lưng và chúng khác nhau về mặt chi tiết. Các chi tiết tạo duyên cho sự sinh khởi của các loại phiền não khác nhau.

Tâm tham căn (lobha-mūla-citta) sinh khởi đi sinh khởi lại qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn. Kể cả khi nó không sinh khởi với tà kiến (diṭṭhi), nó vẫn dính mắc không chỉ vào thực tại xuất hiện qua sáu môn mà còn dính mắc cả vào các khái niệm nữa. Nó dính mắc vào tướng chung (tướng trạng, vẻ bề ngoài) và cả vào tướng riêng (chi tiết); nó dính mắc vào các tên gọi và vào các đối tượng của suy nghĩ.

II. Tuệ giác biết sự thực

Chúng ta cần phải biết các thực tại đúng với sự thực. Tuệ giác (paññā) cần phải biết thực tại như chúng là. Nó cần phải biết đối tượng thị giác là cái xuất hiện qua nhãn môn, cần phải biết khoảnh khắc tâm kinh nghiệm đối tượng thị giác khác với khoảnh khắc tâm kinh nghiệm một khái niệm. 

Như đã biết, ý niệm về một người đàn ông, một người phụ nữ hay mọi thức khác là một hình ảnh hay khái niệm được hay biết qua ý môn chứ không phải nhãn môn. Khi phát triển tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna),  để có thể chứng ngộ được sự sinh và diệt của danh (nāma) và sắc (rūpa), chúng ta cần phải biết các đặc tính của thực tại khi chúng sinh khởi một cách tự nhiên, cần phải biết rằng pháp chân đế (paramatthadhamma) không phải là khái niệm. Chúng ta cần phải phát triển tuệ giác khi các thực tại xuất hiện qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn.

Ta cần phải biết khi nào đối tượng là khái niệm. Khi một đối tượng không phải là pháp chân đế, đối tượng là khái niệm. Trong cuộc sống hàng ngày hầu hết chúng ta liên tục nghĩ về các khái niệm và khi nghĩ về khái niệm thì các đặc tính của pháp chân đế được kinh nghiệm qua sáu căn bị che lấp. Vì vậy, các thực tại không được biết như chúng là. 

Khi nào tuệ giác sẽ trở nên sắc bén đủ để biết được sự thực rằng cái xuất hiện và in dấu lên nhãn căn chỉ là màu? Khi nào tuệ giác sẽ trở nên sắc bén đủ để biết được sự thực khi có cái thấy? Khi sự thực được biết, ta sẽ từ bỏ ý niệm rằng các khái niệm như con người hay mọi thứ là có thật, ta sẽ có khả năng phân biệt được đối tượng nào là pháp chân đế, đối tượng nào là khái niệm và ta sẽ có cái hiểu đúng về các đối tượng xuất hiện qua sáu môn.

III. Đối tượng của tâm trong giấc mơ và đời sống

Khi ta mơ, ta thấy pháp chân đế hay khái niệm? Nếu ta hỏi mọi người thì họ sẽ trả lời rằng trong mơ họ thấy con người, bạn bè và những thứ khác nhau. Như vậy, khi ngủ mơ, ta chỉ thấy các khái niệm mà thôi. Tại khoảnh khắc ấy, các tâm của lộ trình nhãn môn không sinh khởi bởi vì ta đang ngủ. Tuy nhiên, khi đó có các tâm sinh khởi trong lộ trình ý môn làm công việc suy nghĩ, chúng thấy con người và các thứ khác nhau. Khi ngủ mơ, ta nghĩ về các khái niệm được biết nhờ những gì thấy, nghe, kinh nghiệm từ trước qua các căn khác nhau.

Cũng như vậy, khi đọc về các chủ đề khác nhau trên báo chí hay xem tranh ảnh là ta đang nghĩ về khái niệm mà thôi. Khi ta làm các nhiệm vụ hằng ngày cũng vậy, có cái thấy về đối tượng xuất hiện qua mắt nhưng ta chỉ chú ý đến các khái niệm và tiếp tục suy nghĩ về chúng, ta không biết sự khác biệt giữa các khái niệm và thực tại, ta cũng không biết các đặc tính của thực tại chân đế đang xuất hiện.

IV. Vô minh, thực tại chế định và Tứ niệm xứ

Cái không biết sự khác biệt giữa các pháp chân đế và các khái niệm cũng là một thực tại, một pháp. Đó là vô minh (avijjā), thực tại có chức năng che lấp các đặc tính của thực tại chân đế. Với vô minh, sự thực tuyệt đối bị che lấp bởi sự thực tương đối hay chế định. Ta ngày càng có thêm nhiều các dấu ấn qua mắt, tai và kết hợp các kinh nghiệm này lại, thế giới chế định ngày càng mở rộng hơn và không có điểm dừng cho sự phát triển của nó. 

Ta cần nhận ra thế giới chế định đang che lấp các thực tại (pháp chân đế) tới mức độ nào. Có khái niệm khi bạn nghe âm thanh hiện giờ không? Âm thanh là một pháp chân đế và nó trở thành đối tượng của các tâm trong lộ trình nhĩ môn và rồi của các tâm thuộc lộ trình ý môn. Trong quá trình ấy có tưởng (saññā) ghi nhớ ý nghĩa của các âm thanh khác nhau, tạo duyên cho các suy nghĩ về ngôn từ và tên gọi. Khi tâm biết ý nghĩa của âm thanh, nó biết khái niệm và nó biết khái niệm ấy qua ý môn. Khi xem ti vi, xem kịch hay nghe mọi người nói chuyện, ta cần suy xét xem những gì là khái niệm, không phải là thực tại chân đế. Các pháp chân đế xuất hiện rất nhanh và được tiếp nối bởi thực tại khác. Khi ta biết một người hay một cái gì cụ thể là lúc đối tượng của tâm đã là khái niệm rồi. 

Nếu ta nghiên cứu tâm, tâm sở và sắc ngày càng chi tiết hơn thì hiểu biết về Giáo pháp ở mức độ tư duy sẽ ngày một phát triển. Hiểu biết này được tích luỹ và dần dần tạo duyên cho sự sinh khởi của chánh niệm có thể hay biết đặc tính của các pháp chân đế, nhờ vậy bớt có sự dính mắc vào tướng trạng (nimitta) và vào các chi tiết (anuvyañjana), những thứ là các dạng khác nhau của khái niệm. 

Tứ niệm xứ sẽ phát triển khi có chánh niệm về các đặc tính của pháp chân đế và chúng được nhận ra không phải là chúng sinh, con người hay tự ngã.

V. Đối tượng và tứ niệm xứ

Chỉ có pháp chân đế mới có thể là đối tượng của tứ niệm xứ. Khái niệm thì không thể là đối tượng cho tứ niệm xứ được. Khi có khái niệm là đối tượng, không có chánh niệm về đặc tính của các pháp chân đế và không có tứ niệm xứ. Lúc đó chỉ có tâm suy nghĩ về khái niệm, suy nghĩ về ngôn từ qua ý môn. Tuy nhiên, sau khoảnh khắc đó chánh niệm có thể sinh khởi lấy chính tâm suy nghĩ đó làm đối tượng. Lúc này đối tượng của chánh niệm là pháp chân đế và có thể có trí tuệ tứ niệm xứ sinh kèm hiểu biết rằng đó chỉ là một loại tâm suy nghĩ về ngôn từ.

Như vậy, tứ niệm xứ không kinh nghiệm khái niệm nhưng tứ niệm xứ có thể biết được thực tại của suy nghĩ về khái niệm. 

Ta sẽ biết khái niệm không phải là pháp chân đế nếu ta học nhận ra các đặc tính của các pháp chân đế sinh khởi cùng nhau, ta cần chánh niệm về từng đặc tính một khi nó xuất hiện qua từng giác quan. Để có thể biết được chân lý, ta phát triển trí tuệ đến mức độ tứ niệm xứ để chứng nghiệm sự sinh và diệt của sắc, cái xuất hiện một mình qua một giác quan tại một thời điểm. 

Khi ta chưa chứng ngộ được sự sinh diệt của từng thực tại một, ta cho cái xuất hiện là một khối, là một thứ tồn tại có thật. Ví dụ ta cho quả nho là có thật, nhưng đó chỉ là khái niệm, trên thực tế chỉ có vị (pháp chân đế) sinh và diệt hoặc cứng (pháp chân đế) sinh và diệt. 

VI. Sự suy xét và phát triển hiểu biết 

Mỗi sắc chỉ tồn tại kéo dài trong mười bảy sát na tâm. Vì vậy, sắc sinh khởi không có thời gian đứng, ngồi hay làm bất cứ thứ gì. Ta thấy mọi người đi lại, giơ tay .... là bởi vì đã có nhiều lộ trình tâm qua ý môn tiếp nối các lộ trình nhãn môn và các tâm hộ kiếp xen giữa các lộ trình. Dường như ta đang thấy và nghe cùng một lúc. Nhưng thực chất giữa khoảnh khắc của cái thấy và cái nghe đã có khoảng thời gian nhiều hơn mười bảy sát na tâm trôi qua. Đối tượng thị giác (sắc pháp) xuất hiện qua mắt, tồn tại trong mười bảy sát na tâm phải diệt đi trước khi tâm nghe (nhãn thức) sinh khởi. 

Như vậy khi ta thấy mọi người giơ tay hay đi lại, thực chất đã có rất nhiều lộ trình nhãn môn, tâm hộ kiếp, lộ trình ý môn cũng như rất nhiều các lộ trình tâm qua ý môn suy nghĩ về khái niệm sinh khởi, có vô số danh pháp và sắc pháp đã sinh và diệt liên tục. 

Khi ta nghiên cứu pháp chân đế, ta cần nhớ rằng danh và sắc là thực, rằng chúng không phải là con người hay tự ngã; rằng chúng không phải là đàn ông, đàn bà hay những thứ này thứ nọ. Ta có thể thường nghe như thế và chính ta có thể lặp lại các điều này. Tuy nhiên, trí tuệ cần phải được phát triển đến mức độ sự thật có thể được hiểu trực tiếp. Mùi và cứng là các thực tại xuất hiện và sau đó, do bởi các thực tại ấy, có khái niệm về trái nho. Các sắc sinh và diệt là có thật, nhưng theo nghĩa tối hậu, không có trái nho hay con người, chỉ có các sắc pháp và danh pháp sinh và diệt nối tiếp nhau một cách nhanh chóng. 

Ngay từ ban đầu, sự thực hành Pháp cần phải tương ứng với các kiến thức lý thuyết có được qua việc nghe và nghiên cứu, cần phải tương ứng với đặc tính thật sự của các thực tại. Chẳng hạn ta đã học rằng các pháp là vô ngã và vì vậy ta nên cố gắng hiểu ý nghĩa của điều ấy, kể cả trên mức độ lý thuyết. Ta nên suy xét điều ấy và phát triển tuệ giác để có thể chứng ngộ được chân lý theo đúng những gì mà ta đã được học.

Phụ lục. Một cách phân chia khái niệm nữa

"Tất cả những sự vật khác biệt ấy, mặc dầu theo ý nghĩa tột cùng (tức chân đế) thì không có hiện hữu, đã trở thành đối tượng của tâm dưới hình thức là những hình bóng của sự vật (tột cùng).

Những sự vật ấy được gọi là "paññatti", khái niệm, bởi vì người ta nghĩ đến, nhận ra, hiểu biết, biểu lộ và làm cho được hiểu biết vì lý do, theo nhận xét, đối với phương thức này hay phương thức khác."

Cuốn Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Abhidhamma Sangaha) có ghi một cách phân chia khái niệm như sau:

  1. Khái niệm tương tục (Saṇṭānapaññatti): tương ứng với sự liên tục của vạn vật chẳng hạn như các khái niệm đất đai, đồi núi, cây cối, là các khái niệm được hình thành dựa trên sự sinh diệt liên tục của các giới (dhātu).
  2. Khái niệm tổng thể - hình khối (Samūhapaññatti): tương ứng với hình thức cấu tạo của vật chất, biểu hiện bằng sự tổng hợp của nhiều phần, chẳng hạn như cỗ xe hay chiến xa.
  3. Khái niệm chế định (Sammuttipaññatti), chẳng hạn như con người hay cá nhân, là các khái niệm hình thành từ ngũ uẩn.
  4. Khái niệm địa phương (Disāpaññatti): khái niệm hay ý niệm liên quan đến chuyển động của mặt trăng, chẳng hạn như hướng đông hay hướng tây
  5. Khái niệm thời gian (Kālapaññatti): chẳng hạn như buổi sáng, buổi tối
  6. Khái niệm mùa (Māsapaññatti): khái niệm tương ứng với các mùa và các tháng, chẳng hạn như "Vesakkha".
  7. Khái niệm không gian (Akāsapaññatti): chẳng hạn như cái giếng hay cái động. Nó tới từ loại không gian tiếp xúc với tứ đại.
  8. Tướng khái niệm (Nimittapaññatti): tướng được hình thành trong sự phát triển samatha, chẳng hạn như tướng của một kasina.

 --- Lời bạt của người viết ----

Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch. 

Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.

---- Lưu ý (disclaimer) ----

Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.

Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.

Comments

Popular Posts