Nhập môn Pháp chân đế: XXIII. Thế gian

Tâm (citta) có thể được xếp thành các loại thế gian (lokiya) và siêu thế (lokuttara). 

Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa của từ "loka" tức là thế gian.

I. Chịu sự biến hoại

Đối với bậc thánh nhân - những người đã đạt được giác ngộ, sự tạm bợ của các thực tại là hiển nhiên. Nhưng đối với những người chưa chứng ngộ được sự sinh diệt của các thực tại thì không phải như vậy. Đức Phật đã nói với Đại đức Ānanda rằng bất cứ thứ gì tạm bợ là thế gian dưới con mắt của bậc thánh nhân. Thế gian là tất cả những gì sinh và diệt. Pháp (chân đế mà) không sinh diệt thì không phải là thế gian, nó tách biệt khỏi thế gian và là siêu thế gian "lokuttara". Đó là Niết bàn.

Chúng ta có thể chia tâm thành hiệp thế và siêu thế. Tâm nào không nhận rõ đặc tính của niết bàn thì tâm đó không có niết bàn là đối tượng, được gọi là tâm hiệp thế (lokiyacitta). Tâm có niết bàn làm đối tượng và tận diệt phiền não chính là tâm đạo (magga-citta), và tâm có niết bàn là đối tượng sau khi phiền não được tận diệt là tâm quả (phala-citta), tiếp nối ngay sau tâm đạo. Hai loại tâm này đều có niết bàn là đối tượng và là tâm siêu thế (lokuttaracitta).

Ta cần phát triển trí tuệ hiệp thế (lokiya paññā) chứng ngộ đặc tính của danh và sắc để có thể trở thành thánh nhân. Trí tuệ hiệp thế không phải là kiến thức về mặt kỹ thuật hay hiểu biết khoa học. Trí tuệ hiệp thế trong đạo Phật không phải là kiến thức nào khác ngoài hiểu biết về đặc tính của danh và sắc.

Trí tuệ hiệp thế biết các đặc tính của thế gian, tức là các thực tại xuất hiện qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn, nó biết các thực tại ngoài niết bàn.

Có bốn tâm đạo và là các tâm thiện siêu thế của bốn giai đoạn giác ngộ, lấy niết bàn làm đối tượng khi chúng tận diệt phiền não tương ứng với các giai đoạn ấy. Có bốn tâm quả và là các tâm quả siêu thế, lấy niết bàn làm đối tượng khi các phiền não đã được tận diệt tương ứng theo các tầng giác ngộ. Chúng là: 

  • Tâm đạo Dự lưu (Sotāpatti magga-citta), Tâm quả Dự lưu (Sotāpatti phala-citta)
  • Tâm đạo Nhất lai (Sakadāgāmī magga-citta), Tâm quả Nhất lai (Sakadāgāmī phala-citta)
  • Tâm đạo Bất lai (Anāgāmī magga-citta), Tâm quả Bất lai (Anāgāmī phala-citta)
  • Tâm đạo A la hán (Arahatta magga-citta), Tâm quả A la hán (Arahatta phala-citta)

Các tâm khác ngoài các tâm này là các tâm hiệp thế. 

II. Trống rỗng tự ngã

Trong Tương Ưng Bộ Kinh có ghi lời Đức Phật đã nói với Đại đức Ānanda:

“… 

4) – – Vì rằng, này Ānanda, thế giới là không tự ngã và không thuộc tự ngã, nên thế giới được gọi là trống không. Và cái gì, này Ānanda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã?

5 – 6) Mắt, này Ānanda, là không tự ngã và không thuộc tự ngã. Các sắc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn thức là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã. Nhãn xúc là không tự ngã, hay không thuộc tự ngã… Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy không có tự ngã hay không thuộc tự ngã.

11) Và vì rằng, này Ānanda, không có tự ngã, hay không thuộc tự ngã nên được gọi trống không là thế giới này.  ... ”  

 Các pháp hữu vi đều trống không một tự ngã, trống không những gì thuộc về tự ngã. Các pháp có thể được kinh nghiệm qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý môn sinh khởi rồi diệt đi. Các đặc tính của thế gian đều trống rỗng một tự ngã và những gì thuộc về một tự ngã. 

Một số người cho rằng có lúc họ kinh nghiệm được rằng không có gì thuộc về một tự ngã. Trước kia họ tin rằng có một tự ngã và những thứ thuộc về một tự ngã. Tuy nhiên, sau khi nghe Pháp họ đi tới kết luận rằng không có gì thuộc về ngã và rằng mình không nên dính mắc vào tà kiến ấy. Tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ về chân lý. Hiểu biết ở mức độ lý thuyết như vậy thì không đủ, vì nó không thể tận diệt được phiền não. Nếu một người không nhận ra rằng mình mới chỉ hiểu ở mức độ lý thuyết, người ấy có thể tưởng nhầm rằng mình đã đạt được mức độ trí tuệ rất lớn và mình sẽ sớm đạt được giác ngộ. Mọi người có thể nghĩ như vậy bởi vì họ đã tìm ra điều gì đó mà họ chưa từng biết trước đây và họ cho rằng hiểu biết này là một cái gì đó phi thường!

Ta cần biết rằng phiền não không thể được tận diệt chỉ bằng suy nghĩ về chân lý. Chừng nào một người chưa phát triển trí tuệ có thể hay biết các đặc tính của các thực tại đang xuất hiện thì người ấy chưa thể xuyên thấu được bản chất thật sự của danh sắc và chưa thể chứng ngộ được sự sinh diệt của chúng. 

Danh và sắc đang sinh diệt và đó chính là thế gian đang sinh và diệt ở khoảnh khắc này. Mọi người có thể suy ngẫm về đặc tính của danh và sắc, có thể hiểu về chúng, nhưng họ không nên tưởng nhầm rằng trí tuệ đã được phát triển tới mức độ có thể tận diệt được phiền não. Nếu chánh niệm chưa sinh khởi, nếu không có sự hay biết và thẩm xét các đặc tính của thực tại đang xuất hiện một mình tại một thời điểm, thì sự khác biệt giữa danh và sắc không thể được liễu ngộ. 

Sự khác biệt giữa các đặc tính của danh và sắc cần được chứng ngộ qua ý môn khi chúng xuất hiện một mình ở một thời điểm để chúng được biết rõ ràng như chúng là. Chừng nào giai đoạn này còn chưa đạt tới thì tuệ giác chưa thể phát triển xa hơn đến mức có thể hiểu rằng các pháp hữu vi chỉ là một thế giới trống rỗng, trống rỗng những gì ta cho là tự ngã, chúng sinh hay con người.  Tính không (suññatta) không thể được chứng ngộ chừng nào còn vô minh về các thực tại (các pháp chân đế).


III. Không dễ biết bản chất thật của thế gian

Nếu mọi người không nghiên cứu và suy xét Giáo pháp mà Đức Phật đã dạy và nếu họ không phát triển tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna), họ không thực sự biết thế gian, kể cả khi họ đã ở trong thế gian này trong khoảng thời gian vô cùng tận. Nếu chúng ta không biết về thế giới như nó là thì ta không thể giải thoát khỏi nó. Ai đấy có thể nghĩ rằng cuộc sống trong thế giới này là dễ chịu khi họ kinh nghiệm rất nhiều hạnh phúc, nhưng sẽ không thể có hạnh phúc một cách liên tục, các cảm thọ dễ chịu sinh khởi trong khoảnh khắc ngắn ngủi rồi diệt đi. Nếu mọi người không nghiên cứu thực tại và không biết chúng như chúng là, họ không biết thế gian là gì và nó bao gồm những gì.

Chừng nào ta còn chưa xuyên thấu đặc tính của thực tại sinh và diệt tiếp nối nhau rất nhanh, ta vẫn cho cái xuất hiện là một khối, một chúng sinh, một con người hay một thứ. Khi ấy chúng ta không biết thế gian là gì. Một người có thể đã nghiên cứu địa lý, lịch sử, hay khoa học, nhưng tất cả những kiến thức kỹ thuật hay khoa học không thể giúp cho người ấy có thể thoát khỏi thế giới, kể cả sau quãng thời gian vô cùng tận. Nếu một người không biết thế giới thực sự là gì, người ấy không thể nào thoát khỏi nó.

Liệu thế gian có phải là nơi trú ẩn cho chúng ta trong cuộc đời hay không? Chúng ta dính mắc thọ hỷ, nhưng mỗi khi nó sinh khởi thì lại diệt đi một cách hoàn toàn và cảm thọ ấy không thể quay lại được nữa. 

Việc suy xét rằng liệu chúng ta đã sẵn sàng từ bỏ ý niệm về chúng sinh, về con người, về cái ngã hay chưa là rất quan trọng. Tại khoảnh khắc này không có ngã, nhưng liệu ta đã sẵn sàng xả ly với thế gian hay chưa? Trước hết, ta cần biết một cách rõ ràng rằng không có một tự ngã, không có chúng sinh hay con người, khi đó chúng ta có thể xả ly với thế gian và hoàn toàn thoát khỏi nó.

Một số người không thể chịu đựng được sự thực rằng không có một tự ngã đang thấy, đang nghe, đang kinh nghiệm các đối tượng giác quan khác nhau. Họ không thể chấp nhận rằng, theo nghĩa tuyệt đối, không có họ hàng và bạn bè, không có của cải, không có những thứ mà họ vui thú. Thông thường mọi người không tin rằng họ cần phải giải thoát khỏi thế gian. Để có thể từ bỏ tà kiến về tôi và của tôi, ta cần phát triển trí tuệ để biết tất cả các pháp chân đế đang xuất hiện như chúng là. Khi ấy, chúng ta thực sự biết thế gian trong đó chỉ có các thực tại ấy.

Không dễ biết thế gian thực sự là gì. Những người đã học sự thực về thế gian mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng cần phải suy xét một cách cẩn thận những gì mình học từ góc độ cuộc sống hàng ngày. Họ cần tiếp tục phát triển trí tuệ để nó trở nên sắc bén hơn và hay biết các đặc tính của thực tại tạo nên thế giới ấy như chúng là. Chúng ta cần phải biết thế gian ở ngay khoảnh khắc này, chứ không phải ở một thời điểm nào khác. Chúng ta cần phải biết thế gian khi có cái thấy, nghe, ngửi, nếm, kinh nghiệm đối tượng xúc chạm hay suy nghĩ chính lúc này đây. Ta cần nghe Pháp và nghiên cứu các pháp chân đế để có được sự hay biết, suy xét và hiểu biết về các đặc tính của thực tại xuất hiện qua sáu cửa giác quan, đó là cách duy nhất để trí tuệ có thể phát triển và biết thế gian sinh diệt trong từng khoảnh khắc ngay bây giờ.

IV. Thế gian và sáu cửa giác quan

Thế gian được nhận biết bởi mắt và qua căn môn ấy, các màu sắc của thế giới được thấy. Qua tai, các âm thanh của thế giới được nghe. Qua mũi, các mùi của thế giới được ngửi. Qua lưỡi, các vị của thế giới được nếm. Qua thân căn thì nóng lạnh, cứng, mềm, chuyển động và co giãn của thế giới được kinh nghiệm. 

Nếu không có các căn môn thì thế giới có thể được kinh nghiệm không? Nếu không có cái thấy, nghe, ngửi, nếm, kinh nghiệm đối tượng xúc chạm hay suy nghĩ thì thế giới không thể xuất hiện. Chúng ta dính mắc vào ý niệm rằng thế giới xuất hiện bởi có cái thấy. Cái xuất hiện qua mắt thật ra chỉ là thế giới của màu. Cũng như vậy, cái xuất hiện qua tai chỉ là thế giới của âm thanh. Cũng như vậy với cái xuất hiện qua các căn môn khác. 

Như vậy, thế giới hay thế gian chỉ bao gồm các đối tượng thị giác, âm thanh, mùi vị, đối tượng xúc chạm; và sở dĩ thế gian có thể xuất hiện là bởi có ngũ môn và ý môn. Qua ngũ môn, có sự kinh nghiệm các đối tượng giác quan. Qua ý môn, có suy nghĩ về các đối tượng xuất hiện qua sáu cửa giác quan. Chúng ta không cần phải đi tìm một thế giới nào khác, dù chúng ta sống ở thế giới nào đi nữa thì thế giới ấy chỉ xuất hiện qua một trong sáu cửa giác quan mà thôi.

Nếu ta không thực sự biết thế giới như chúng là thì chúng ta sẽ không thể nào giải thoát khỏi nó, kể cả khi ta mong muốn điều ấy. Trong các kiếp quá khứ, mọi người sống trong các thế giới khác nhau và trong tương lai họ cũng sẽ sống trong các thế giới một khoảng thời gian vô cùng tận. Họ sẽ tái sinh đi tái sinh lại, trôi nổi mãi mãi trong vòng sinh tử luân hồi, kinh nghiệm hạnh phúc và khổ đau.

Một số người tin rằng Đức Phật vẫn còn tồn tại mặc dầu Ngài đã bát niết bàn (Parinibbāna). Họ muốn đi thăm Ngài để có thể cúng dường vật thực cho Ngài. Điều đó là không thể. Khi Đức Phật bát niết bàn, Ngài đã tịch diệt, không còn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý nữa. Ngài không đi đến một nơi cụ thể sau khi đã bát niết bàn. Nếu như Ngài vẫn còn các căn và tâm sinh diệt thì có nghĩa Ngài vẫn chưa hoàn toàn giải thoát khỏi thế gian và Ngài vẫn chưa thoát khỏi khổ (dukkha).

Thế gian là cái xuất hiện qua sáu cửa giác quan. Nếu các tâm không sinh khởi và kinh nghiệm các đối tượng khác nhau, thế gian sẽ không xuất hiện. Khi chánh niệm hay biết, các đối tượng xuất hiện có thể được nghiên cứu và thẩm xét và đó là các đặc tính của thế gian xuất hiện qua sáu cửa giác quan như chúng là. Khi suy nghĩ về thế giới thì không phải là biết các đặc tính của thế gian. Nếu ai đấy nghĩ về thế giới, người ấy thực chất nghĩ về chúng sinh, về con người, về tự ngã, về những thứ khác nhau và khi đó, người ấy chỉ biết về thế gian qua sự thật chế định (sammuti sacca), chứ không phải bằng sự thật tuyệt đối (paramattha sacca).

V. Thế gian và lộ trình tâm

Khoảnh khắc nào cũng có tâm, nhưng thế gian không xuất hiện trong tất cả các khoảnh khắc. Khi không có thấy, nghe, ngửi, nếm, kinh nghiệm đối tượng xúc chạm hay suy nghĩ thì thế giới không xuất hiện. 

Thức tái tục là tâm đầu tiên trong một kiếp sống không kinh nghiệm đối tượng của thế giới này, nó là tâm quả, được tạo duyên bởi nghiệp. Thức tái tục kinh nghiệm cùng một đối tượng với tâm sinh khởi ngay trước tử thức của kiếp sống trước. Vì thức tái tục không nhận biết đối tượng của thế giới này, thế giới này không xuất hiện ở khoảnh khắc ấy. Khi thức tái tục đã diệt đi, nghiệp đã tạo duyên cho sự sinh khởi của thức tái tục cũng tạo duyên cho tâm hộ kiếp (bhavanga-citta) tiếp nối ngay sau đó. Các tâm hộ kiếp kinh nghiệm cùng một đối tượng với thức tái tục, chúng không thấy, nghe, ngửi, nếm,... hay suy nghĩ. Vì vậy chừng nào các tâm hộ kiếp còn đang sinh diệt thì chừng ấy thế gian không xuất hiện.

Khi các tâm sinh khởi trong lộ trình thì thế gian lại xuất hiện. Các tâm lộ sinh khởi và nhận biết thế gian qua sáu cửa giác quan gồm năm sắc thần kinh và ý môn. Khi một lộ trình tâm ngũ môn vừa diệt đi, có một vài tâm hộ kiếp sinh lên rồi sau đó có ý môn hướng tâm (manodvārāvajjana - citta) sinh khởi. Tại khoảnh khắc ấy đối tượng không còn lệ thuộc vào các sắc thần kinh (pasāda rūpa) làm căn môn nữa, mà lệ thuộc vào ý môn. Ở đây, ý môn chính là tâm hộ kiếp dứt dòng (bhavanga upaccheda), cái sinh khởi ngay trước ý môn hướng tâm. Nếu tâm hộ kiếp dứt dòng không sinh khởi, tâm đầu tiên kinh nghiệm đối tượng qua ý môn tức là ý môn hướng tâm không thể sinh khởi. Ý môn và ý môn hướng tâm là các pháp khác nhau. Ý môn chính là tâm hộ kiếp dứt dòng, nó là một tâm quả không sinh khởi trong một lộ trình và như vậy không phải là tâm lộ. Ý môn hướng tâm là tâm duy tác, là tâm lộ đầu tiên sinh khởi và biết một đối tượng qua ý môn.

Đó là cuộc sống bình thường, hàng ngày. Thế gian sinh diệt trong từng khoảnh khắc qua các căn môn và bản thân các căn môn cũng đang sinh diệt trong từng khoảnh khắc, không phải một chúng sinh, con người hay một tự ngã.

Danh pháp (tâm và tâm sở) sinh và diệt tiếp nối nhau cực kỳ nhanh chóng và dường như chúng ta đang thấy và nghe cùng một lúc. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ có một tâm sinh khởi ở một thời điểm và kinh nghiệm đối tượng trong khi lệ thuộc vào một cửa giác quan rồi diệt đi nhanh chóng. Một lộ trình tâm bao gồm nhiều tâm sinh diệt một cách liên tiếp. Các tâm trong cùng một lộ trình lệ thuộc vào cùng môn đó. Vì tâm tiếp nối nhau một cách nhanh chóng, ta có thể không biết được đặc tính thực sự của các tâm sinh khởi trong lộ trình nhãn môn, không nhận ra rằng chúng chỉ kinh nghiệm một thực tại qua mắt mà thôi. Các tâm của lộ trình ý môn sinh khởi sau đó tiếp nhận và kinh nghiệm đối tượng thị giác xuất hiện ngay trước đó trong lộ trình nhãn môn, sau đó mới có các lộ trình ý môn nhận ra và nhớ lại hình dạng của cái đã xuất hiện và khi ấy ta dễ quên mất rằng cái xuất hiện qua mắt trên thực tế chỉ là đối tượng thị giác mà thôi.

VI. Thế gian chế định

Nhãn căn được so sánh với một đại dương rộng lớn không bao giờ có thể lấp đầy. Mặc dầu mặt trăng, mặt trời và các ngôi sao là vô cùng xa xôi, màu sắc của chúng vẫn có thể tiếp xúc với nhãn căn và được kinh nghiệm bởi các tâm lộ của lộ trình nhãn môn. Dường như có vũ trụ, một thế giới đầy chúng sinh, con người và mọi thứ. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ có tâm suy nghĩ về hình dạng của tứ đại - đất, nước, lửa, gió - xuất hiện trong những kết hợp khác nhau, xuất hiện thành chúng sinh, con người, mặt trăng, mặt trời, ngôi sao và nhiều thứ khác nhau. Khi tâm kinh nghiệm các đối tượng xúc chạm, thực chất chỉ có nóng, lạnh, cứng, mềm, căng và chùng xuất hiện. Nếu ta biết các pháp thật như chúng là, chúng ta sẽ nhận ra thế giới thực sự là gì, chỉ là các pháp sinh diệt rất nhanh và hoàn toàn tạm bợ, vô thường.

Các pháp sinh sẽ phải diệt, không có ngoại lệ. Nếu ta không nhận ra sự sinh diệt của các pháp, ta sẽ chỉ chú ý đến sự thực chế định mà thôi. Các tâm của lộ trình ý môn nhớ tưởng về một "khối", về hình dạng của cái xuất hiện qua mắt, chúng nhớ tưởng ý nghĩa của những âm thanh cao thấp xuất hiện qua tai, chúng nhớ tưởng tên của những thứ khác nhau và khi ấy chỉ có khái niệm được biết mà thôi.


Quả hiệp thế và siêu thế

Khi tâm đạo Dự lưu sinh khởi, nó đảm nhận chức năng tận diệt phiền não rồi diệt đi. Nó được tiếp nối ngay bởi tâm quả Dự lưu. Tâm quả này cũng có niết bàn làm đối tượng, nó sinh khởi ngay sau khi phiền não đã được tận diệt ở mức độ tương ứng bởi tâm đạo ngay trước đó. Như vậy, tâm đạo Dự lưu (một tâm thiện siêu thế) làm duyên cho tâm quả siêu thế nối tiếp ngay lập tức, không có gián đoạn. Tam Tạng dùng từ "akaliko" (phi thời gian) để nói đến sự việc tâm đạo siêu thế tạo ra quả ngay lập tức.

Các nghiệp thiện hay bất thiện hiệp thế thì khác, chúng không thể tạo ra tâm quả tương ứng ngay lập tức như vậy. Người phát triển samatha tới mức độ đắc thiền sẽ không nhận được quả của tâm thiền ấy chừng nào vẫn ở cõi người, vì tâm quả thiền (jhāna vipākacitta) đảm nhận chức năng tái tục, hộ kiếp và chức năng tử chỉ trong cõi phạm thiên. Chừng nào người ấy chưa tái sinh vào cõi phạm thiên, tâm quả này chưa thể sinh khởi. 

Các tâm quả thiền vô sắc giới cũng vậy, chỉ sinh khởi trong các cõi phạm thiên vô sắc giới.

Như vậy trong trường hợp các tâm thiền thì nghiệp không tạo quả trong cùng kiếp sống ấy. Với các nghiệp thiện dục giới (kāmāvacara kusala citta) thì tuy quả có thể sinh khởi trong cùng một kiếp sống nhưng không thể ngay lập tức. Giữa khoảng thời gian mà nghiệp được tạo và quả của nó được trổ có nhiều tâm khác sinh và diệt. Quả có thể trổ trong kiếp này, kiếp tương lai, hoặc thậm chí sau nhiều kiếp. Chỉ có tâm thiện siêu thế mới cho quả ngay lập tức.  

Lộ trình ý môn ngay sau lộ trình ngũ môn

Đức Phật giải thích rằng khi các tâm sinh khởi trong lộ trình nhãn môn kinh nghiệm đối tượng thị giác qua nhãn môn đã diệt đi, có nhiều tâm hộ kiếp sinh và diệt. Vô cùng nhanh chóng sau đó, tâm sinh khởi kinh nghiệm qua ý môn đối tượng thị giác vừa mới được kinh nghiệm trước đó trong lộ trình nhãn môn. Lời dạy chi tiết của Đức Phật về các căn môn có thể giúp ta không bị lẫn lộn giữa các tâm kinh nghiệm đối tượng thị giác trong lộ trình nhãn môn và các tâm kinh nghiệm đối tượng trong lộ trình ý môn sau khi lộ trình nhãn môn đã kết thúc. Cũng như vậy đối với các cửa giác quan khác. Khi các tâm kinh nghiệm đối tượng qua một trong các cửa giác quan đã diệt đi, luôn có các tâm hộ kiếp sinh diệt nối tiếp nhau và rồi các tâm thuộc lộ trình ý môn biết cùng đối tượng ấy qua ý môn.

>> tiếp theo

--- Lời bạt của người viết ----

Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch. 

Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.

---- Lưu ý (disclaimer) ----

Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.

Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.

Comments

Popular Posts