Nhập môn Pháp chân đế: XXIV. Tính chất muôn màu vẻ của tâm
Tâm muôn màu vẻ (vicitta) và nó tạo nên rất nhiều hiệu ứng. Cuốn Chú Giải Bộ Pháp Tụ có viết:
"... tất cả những hình thái nghệ thuật trên thế giới, riêng hay chung, đều được thực hiện nhờ vào tâm...., tâm thực hiện tất cả những nghệ thuật này cũng đa sắc màu như chính bản thân nghệ thuật vậy. Không, tâm còn đa sắc màu hơn chính bản thân nghệ thuật, bởi vì nghệ thuật không thể thực hiện hoàn hảo từng ý tưởng thiết kế. Vì lý do đó, Đức Thế Tôn đã dạy: "Này chư Tỳ kheo, các ngươi có nhìn thấy một tác phẩm hội họa kiệt tác nào chưa?". "Thưa Ngài, có ạ". "Này chư Tỳ kheo, kiệt tác nghệ thuật đó do tâm sáng tác. Thật vậy, này chư Tỳ kheo, tâm thậm chí lại còn đa sắc màu hơn chính kiệt tác đó nữa""
I. Các thể hiện đa dạng
Tâm còn đa dạng hơn tất cả các nghệ thuật trên đời. Sự đa dạng trong các hành động hàng ngày của ta khiến tính chất đa dạng của tâm thật hiển nhiên. Có nhiều loại thiện nghiệp khác nhau: bố thí, trì giới, phát triển tâm trí ..... Có nhiều loại nghiệp bất thiện khác nhau: sát sanh, trộm cắp ..... Tính chất đa dạng của tâm thể hiện qua nhiều loại hành động khác nhau.
Sự thể hiện của các sắc cũng đã rất đa dạng. Lấy các sắc bên ngoài - các sắc không phải chúng sinh - làm ví dụ: Sự đa dạng của thực vật, cây cối, hoa lá, các ngọn núi hay các dòng sông dường như bất tận. Tất cả các sự đa dạng trong tự nhiên này có được là bởi các yếu tố tứ đại (các đặc tính cứng/ mềm, kết dính, nóng/ lạnh, chuyển động hay co giãn) sinh khởi trong các kiểu kết hợp khác nhau. Có nhiều mức độ khác nhau của các đặc tính này của tứ đại, cái sinh khởi cùng nhau theo những kiểu kết hợp khác nhau và đó là lý do khiến sắc bên ngoài rất đa dạng. Tuy nhiên, còn đa dạng hơn cả các sự kết hợp này là tính chất muôn màu vẻ của tâm.
Nghiệp bất thiện có muôn màu vẻ và vì vậy có duyên cho sự đa dạng không kể xiết trong hình hài các loài thú. Có những con thú hai chân, bốn chân, nhiều chân hơn nữa hoặc không chân. Có những con sống dưới nước, sống trên mặt đất .... Nghiệp thiện cũng muôn màu vẻ, khiến cho con người khác biệt nhau về giới tính, dáng dấp hay nét mặt. Tâm muôn màu vẻ trong các hoạt động của nó tới mức cần rất nhiều thuật ngữ để chỉ ra và đặt tên cho các đặc tính xuất hiện này.
Bất kể chúng ta là ai, chúng ta thấy gì, bất kể chủ đề của các cuộc nói chuyện của ta là như thế nào, tính chất muôn màu vẻ của tâm trong các hoạt động khác nhau luôn được thể hiện.
Đức Phật nhắc nhở chúng ta suy xét các đặc tính của tâm ở khoảnh khắc này, khi ta nhận ra sự đa dạng của các hệ quả của tính chất muôn màu vẻ của tâm. Tại thời điểm này, tâm tạo ra các hành động khác nhau và vì vậy sẽ có các kết quả đa dạng tương ứng trong tương lai.
Đức Phật nhắc nhở chúng ta thẩm sát đặc tính của tâm sinh khởi tại khoảnh khắc này và đó là "niệm tâm", một trong bốn niệm xứ. Để có thể hiểu được đặc tính của tâm, ta cần phải hay biết tâm thấy hiện giờ, tâm nghe, tâm ngửi, tâm nếm .... ở khoảnh khắc này, tức là hay biết các tâm sinh khởi dựa trên một trong sáu cửa giác quan.
II. Tâm luôn lui tới các đối tượng
Tất cả chúng ta đều nghĩ về các chủ đề khác nhau và các câu chuyện khác nhau. Tâm là thực tại suy nghĩ. Nếu ta không suy xét tâm khi có cái thấy hiện giờ, hay kinh nghiệm một trong các đối tượng ngũ căn hiện giờ, hay suy nghĩ hiện giờ, khi nào ta mới có thể hiểu được đặc tính của tâm?
Tâm nghĩ về nhiều thứ khác nhau, tâm luôn rong ruổi. Tâm rong ruổi khi có cái thấy qua mắt, nghe qua tai, ngửi qua mũi, nếm qua lưỡi, kinh nghiệm đối tượng xúc chạm qua thân căn và kinh nghiệm đối tượng qua ý môn. Tất cả chúng ta đều thích rong ruổi, hỏi có ai muốn ở yên một chỗ, thụ động, sống một cuộc sống đơn điệu? Chúng ta muốn thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm .... Ta muốn kinh nghiệm tất cả các đối tượng ngũ dục khác nhau, không bao giờ thấy đủ.
Nếu ta thấy được đặc tính của các thực tại như chúng là, ta có thể biết rằng tâm sinh khởi, kinh nghiệm đối tượng rồi diệt đi. Đó là đặc tính thực sự của tâm.
III. Sự bám chấp vào đối tượng và các uẩn
Ta đọc trong Tương Ưng Bộ Kinh:
"3) Vô thỉ, này các Tỳ kheo, là sự luân hồi này. Điểm bắt đầu không thể nêu rõ đối với chúng sanh bị vô minh che đậy, bị khát ái trói buộc, phải lưu chuyển, luân hồi.
...
7) Ví như, này các Tỳ kheo, có con chó bị dây thừng trói chặt vào một cây cột hay cột trụ vững chắc, chạy vòng theo, chạy tròn xung quanh cây cột ấy hay cột trụ ấy. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, kẻ vô văn phàm phu ... không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã ... quán thọ như là tự ngã... quán tưởng như là tự ngã... quán các hành như là tự ngã .... quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Người ấy chạy vòng theo, chạy tròn xung quanh sắc... thọ... tưởng... các hành... Người ấy chạy vòng theo, chạy tròn xung quanh thức.... người ấy không giải thoát khỏi sắc, không giải thoát khỏi thọ, không giải thoát khỏi tưởng, không giải thoát khỏi các hành, không giải thoát khỏi thức ...."
Như thế, khi mọi người quanh quẩn bên năm uẩn, họ chấp năm uẩn là "ta", là tự ngã. Người họa sĩ cho bức tranh của mình là cái gì đó quan trọng và tâm của người phàm phu (người chưa chứng đắc) cũng như vậy, cho các đối tượng ngũ dục - cái thực chất chỉ là sắc - là chúng sinh, con người hay tự ngã, là một cái gì đó tồn tại thực sự, và người ấy sẽ tiếp tục như vậy trong mỗi kiếp sống mới.
Hiện giờ tâm đang sinh và diệt, nối tiếp nhau một cách rất nhanh chóng. Có tâm thấy qua mắt, tâm nghe âm thanh qua tai và có các tâm suy nghĩ về tất cả những thứ khác nhau... Chừng nào ta chưa biết được đặc tính của ngũ uẩn, của các thực tại sinh và diệt như chúng là, ta sẽ cho chúng là cái gì đó, là tự ngã. Sự bám chấp vào đối tượng và vào ngũ uẩn này gọi là Ngũ uẩn thủ. Đức Phật dạy một cách chi tiết về ngũ uẩn thủ và mọi người cần nghiên cứu kỹ lưỡng và suy xét về năm uẩn để không còn tà kiến về chúng, mà hiểu được chúng như chúng là.
IV. Tâm chế tác các thực tại tương lai.
"11) .... một người thợ nhuộm hay một người họa sĩ ... có thuốc nhuộm, ... hay màu xanh, hay màu đỏ tía .... người ấy có thể vẽ hình người đàn bà hay hình người đàn ông với đầy đủ tất cả chi tiết. Cũng vậy, .... kẻ vô văn phàm phu liên tục làm cho hiện hữu sắc.... thọ....tưởng....các hành....liên tục làm cho hiện hữu thức."
Ở khoảnh khắc này, tâm của mỗi chúng ta giống như một người họa sĩ, nó tạo nên sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn sẽ sinh khởi trong tương lai.
Tất cả chúng ta đều khác biệt, có tướng mạo khác biệt .... và đó là do các nghiệp khác nhau đã được tạo từ lâu. Tâm tạo tác là duyên cho các quả dị biệt trong tương lai. Sẽ có nhiều quả dị biệt thể hiện ở nơi sinh, giới tính, tướng mạo, tài sản, danh vọng, hạnh phúc, khổ đau, lời khen và tiếng chê. Ta cần biết đặc tính của tâm đang xuất hiện bây giờ, cái đang "khắc họa" hay chế tác các thực tại sẽ sinh khởi trong tương lai. Nếu ta không hay biết đặc tính của nó, ta sẽ không hiểu được tính chất muôn màu vẻ của tâm, cái có thể tạo nên nhiều hiệu ứng khác nhau đến vậy.
V. Hiểu biết đúng, Chánh niệm và thực tại hiện khởi
Đức Phật thuyết pháp cho các vị tỳ kheo để họ suy xét về Giáo pháp và có hiểu biết đúng về Giáo pháp ấy. Đức Phật thuyết pháp vì lợi ích của mọi người. Ngài thuyết pháp một cách chi tiết để mọi người có thể hiểu pháp thiện là pháp thiện và pháp bất thiện là pháp bất thiện và không tưởng lầm bất thiện pháp là thiện pháp. Pháp thiện và pháp bất thiện có đặc tính riêng của chúng và không nên lẫn lộn chúng với nhau.
Hiểu đúng về Giáo pháp không dễ dàng và không thể đạt được một cách nhanh chóng. Đức Phật thuyết pháp để mọi người bền bỉ, có được sự tinh tấn và nỗ lực để suy xét một cách cẩn trọng để có được hiểu biết đúng về Pháp. Bằng cách ấy, chánh niệm có thể sinh khởi và hay biết về các đặc tính của thực tại khi chúng xuất hiện một cách tự nhiên trong đời sống hằng ngày, và trí tuệ có thể liễu ngộ được bản chất thật của chúng.
Đức Phật không dạy những điều không thể được kiểm chứng, Ngài không dạy những gì không xuất hiện hiện giờ. Đức Phật dạy về cái thấy, về đối tượng thị giác qua mắt, về cái nghe, thực tại kinh nghiệm âm thanh, về âm thanh xuất hiện qua tai. Ngài dạy về tất cả các thực tại đang xuất hiện hiện giờ và có thể được kiểm nghiệm. Những thính giả nghe Pháp có thể được cổ vũ trong việc nhẫn nại nghiên cứu Giáo lý, suy xét và hay biết đi hay biết lại đặc tính của thực tại xuất hiện, để bản chất thật của chúng có thể được liễu ngộ đúng như những gì Đức Phật đã dạy.
Chúng ta có nỗ lực và nhẫn nại với Giáo pháp hay không? Ta có phấn khởi và hoan hỷ với Giáo pháp hay không? Ta có thể có nỗ lực và cảm thấy phấn khởi khi thiện tâm sinh khởi. Một số người có thể cảm thấy bất hạnh, lo lắng rằng mình đang già đi, còn chánh niệm thì rất hiếm hoi sinh khởi. Khi một người lo lắng, tâm là bất thiện. Ta không nên lo lắng hay có bất thiện tâm vì Pháp. Tất cả các pháp bất thiện đều sinh khởi do duyên, không một tự ngã nào có thể ngăn cản sự sinh khởi của chúng. Khi pháp bất thiện đã sinh khởi, ta không nên nản chí và cần dũng cảm. Nếu có chánh niệm về đặc tính của bất thiện pháp xuất hiện, ta có thể hoan hỷ với Giáo pháp. Nếu ta thẩm xét đặc tính của bất thiện pháp xuất hiện khi ấy, ta sẽ biết rằng đó không phải là một chúng sinh, một người hay một tự ngã. Ta có thể thấy rõ rằng ở khoảnh khắc của chánh niệm thì không có bất thiện pháp, rằng ta không nhụt chí. Nếu ta không coi bất thiện pháp là ta, ta sẽ không vì thế mà bối rối hay nhụt chí.
Pháp bất thiện sinh khởi do duyên và khi nó đã sinh khởi, thay cho cứ lo lắng về điều ấy, ta nên hay biết đặc tính của nó, thẩm xét và hiểu nó là vô ngã. Đó là cách duy nhất để giảm bớt bất thiện và cuối cùng đoạn diệt nó.
VI. Giá trị và lợi lạc của Sự thật
Khi Tứ niệm xứ được phát triển, mọi người sẽ biết thế nào có nghĩa là "phấn khởi, hoan hỷ và được thanh lọc nhờ lợi lạc có được từ sự liễu ngộ Giáo pháp". Họ sẽ kinh nghiệm được rằng sự thực mà Giáo pháp mô tả có tính chất thanh lọc và mang lại lợi ích cho họ. Các vị tỳ kheo phấn khởi và hoan hỷ bởi lợi lạc mà họ có được từ Giáo lý và "tất cả chúng ta đều có thể có được lợi lạc này".
Sự phát triển của tứ niệm xứ không nên làm chúng ta nhụt chí. Các thực tại xuất hiện có thể được xuyên thấu và liễu ngộ như chúng là: sinh và diệt, không phải là tự ngã hay con người nào hết. Ta không nên lo lắng rằng hôm nay mình vẫn chưa biết được thực tại như chúng là. Hôm nay chánh niệm có thể sinh khởi và bắt đầu hay biết và rồi đặc tính của các thực tại một ngày nào đó có thể hoàn toàn được xuyên thấu và được biết rõ như chúng là. Nếu mọi người hiểu được giá trị lớn lao của Giáo pháp, nếu họ thấy rằng sự thật của Giáo pháp mang lại lợi ích cho họ và rằng một ngày nào đó họ có thể xuyên thấu chân lý ấy, dù không phải ngay ngày hôm nay, họ sẽ không bị nản chí. Họ sẽ tiếp tục lắng nghe và nghiên cứu các thực tại mà Đức Phật đã thuyết giảng chi tiết và khi ấy, sẽ không có sự lơ là về các thực tại và sẽ có duyên cho sự sinh khởi của chánh niệm.
VII. Các pháp là không thể thay đổi
Đức Phật thuyết giảng về các thực tại và chúng là như vậy, chúng không thể thay đổi thành một cái gì đó khác. Tất cả mọi người cần thẩm xét điểm này. Ta cần suy xét xem liệu thiện pháp và bất thiện pháp có thể thay đổi, liệu bất thiện pháp có thể trở thành thiện pháp? Liệu tứ niệm xứ có thể thành một thứ khác?
Nếu ta suy xét nhân và quả một cách đúng đắn, ta có thể hiểu rằng các pháp mà Đức Thế tôn đã thuyết giảng là không thể thay đổi. Ai đó có thể hiểu sai về thực tại, nhưng không ai có thể thay đổi đặc tính thực sự của thực tại.
VIII. Tóm tắt
Có nhiều khía cạnh về sự muôn màu vẻ của tâm. Như ta đã thấy, tâm được phân loại theo nhiều cách khác nhau và điều ấy chỉ ra tính đa dạng của nó cũng như tính đa dạng của các đối tượng mà nó kinh nghiệm. Tâm có thể kinh nghiệm bất kỳ loại đối tượng nào, bất kể nó đa dạng hoặc phức hợp tới mức nào. Tâm kinh nghiệm thực tại chân đế cũng như khái niệm và nó biết ngôn từ chỉ khái niệm, nó biết ngôn từ được dùng trong các ngôn ngữ khác nhau, nó biết tên gọi và nghĩ về nhiều câu chuyện khác nhau. Như vậy, tâm muôn màu vẻ bởi các đối tượng muôn màu vẻ.
Tâm nhận biết, biết rõ đối tượng, đó là đặc tính riêng của nó (sabhāva lakkhaṇa). Tâm cũng có các đặc tính chung (samaññā lakkhaṇa) của tất cả các thực tại hữu vi, tức là ba đặc tính: vô thường, khổ và vô ngã.
Đặc tính cụ thể của tâm là nhận biết một đối tượng
Chức năng của tâm là làm người cầm đầu, là điềm báo trước. Giống như một người canh trạm gác, ngồi giữa ngã đường đô thị. Người lính gác nhận biết từng người dân hay khách thăm đi qua, cái tượng trưng cho đối tượng. Như vậy, tâm là người cầm đầu trong việc nhận biết một đối tượng.
Biểu hiện của tâm là kết nối, tương tục. Tâm sinh và diệt nối tiếp nhau.
Cận nhân của tâm là danh pháp và sắc pháp. Tâm là một pháp hữu vi (saṅkhāra dhamma). Pháp hữu vi không thể tự sinh khởi một mình và vì vậy tâm không thể sinh khởi mà không có các tâm sở đồng sinh. Trong các cõi có ngũ uẩn, tâm phụ thuộc vào danh pháp cũng như sắc pháp để làm duyên cho nó sinh khởi.
>> tiếp theo
--- Lời bạt của người viết ----
Trong quá trình tìm hiểu đạo Phật nguyên thủy, tôi có duyên được tiếp xúc với tác phẩm "Khảo cứu Pháp chân đế" của Ajahn Sujin do Vietnam dhamma home biên dịch.
Với mong muốn giới thiệu rộng thêm tác phẩm, tôi cố gắng ghi lại từng phần của nguyên bản với một số chỉnh sửa (rút gọn, viết lại ...) của cá nhân theo hướng cô đọng hơn trên tinh thần giữ nguyên ý của bản gốc.
---- Lưu ý (disclaimer) ----
Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, không đảm bảo sự chính xác tuyệt đối.
Bài viết có bao gồm các cách diễn đạt/ cách dùng từ/thuật ngữ mang tính cá nhân vì thế có thể có những sai sót không mong muốn so với nguyên bản. Độc giả tự cân nhắc và chịu trách nhiệm khi đọc hay sử dụng nội dung trong bài.
Comments
Post a Comment